Bản án 22/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈ NH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 22/2019/DS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 21/11/2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Cư Jút xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số: 109/2019/TLST-DS ngày 13 tháng 8 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28a/2019/QĐXXST-DS ngày 11/10/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 78/2019/QĐST -DS ngày 06/11/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lại Văn C, sinh năm: 1962.

Trú tại: Thôn A, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông – Có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Văn Q, sinh năm: 1975.

Trú tại: Thôn A, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông - Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lại Văn C trình bày: Do quen biết, cùng quê và là hàng xóm của nhau nên ngày 29/02/2015 Âm lịch - ngày 17/4/2015 dương lịch ông C có cho ông Trần Văn Q và vợ là Vương Thị T vay 150.000.000 đồng (Một trăm năm mươi triệu đồng), hai bên viết giấy vay và thỏa thuận: không tính lãi và hẹn thời gian trả vào cuối năm 2015. Đến ngày 29/02/2016 ông Q có trả cho ông C được 80.000.000 đồng và hẹn sẽ trả tiếp khi đến mùa thu nông sản nhưng từ đó đến nay ông Q vẫn không trả cho ông C được đồng nào. Bà T đã chết vào khoảng tháng 6/2016 nên ông C khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Trần Văn Q phải trả lại cho ông C số tiền còn nợ là 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng) và lãi suất theo quy định của pháp luật nhưng trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa ông C không yêu cầu lãi đối với khoản vay trên. Đối với bị đơn ông Trần Văn Q: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Cư Jút đã giao thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập cho ông Q. Ngày 05/9/2019 ông Q làm bản tự khai có nội dung thừa nhận còn nợ ông C số tiền 70.000.000 đồng và hẹn đến ngày 05/11/2019 sẽ trả tiền nhưng sau đó ông Q không đến Tòa làm việc cho dù đã được giao giấy triệu tập, các thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thông báo Hoãn phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai của ông Q cũng như vụ án không hòa giải được.

Ngày 29/8/2019 Tòa đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, phiên tòa mở vào ngày 25/9/2019, ông Q vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử (HĐXX) đã hoãn phiên tòa. Phiên tòa được mở lại vào ngày 21/11/2019 ông Q vẫn vắng mặt. Toàn bộ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa đều được tống đạt hợp lệ. Do đó, Hội đồng xét cứ căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, sự tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng cũng như nội dung vụ án.

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký từ khi thụ lý vụ án và của Hội đồng xét xử tại phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình, bị đơn không chấp hành vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ 02, nên HĐXX xét xử vắng mặt ông Q là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc ông Trần Văn Q phải trả cho ông Lại Văn C số tiền 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng); đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi suất của nguyên đơn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kếtquả tranh tụng tại phiên tòa hội đồng xét xử nhận định:

[1] . Về tố tụng:

- Thẩm quyền và quan hệ pháp luật tranh chấp: Ông lại Văn C khởi kiện yêu cầu ông Trần Văn Q có địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện C trả số tiền 70.000.000 đồng mà ông Q đã vay. Vì vậy, quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về thời hạn giải quyết vụ án: Vụ án được thụ lý ngày 13/8/2019, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án được giải quyết trong hạn luật định.

[2]. Về nội dung: Hợp đồng vay tài sản giữa ông C và ông Q là hoàn toàn có thật, điều đó được thể hiện qua giấy vay tiền ngày 17/4/2015 dương lịch giữa ông C và vợ chồng ông Trần Văn Q và bà Vương Thị T mà nguyên đơn đã cung cấp cho Tòa án chứng cứ bản gốc có chữ ký của ông Q, bà T. Khi cho vay tiền, ông C cho vợ chồng ông Trần Văn Q và bà Vương Thị T vay hẹn đến cuối năm 2015 trả nhưng đến ngày 29/02/2016 ông Q, bà T mới trả được 80.000.000 đồng còn nợ 70.000.000 đồng và không trả được cho ông C đồng nào nữa. Ngày 09/6/2016 bà T đã chết (Bản sao Giấy chứng tử - Bút lục 30), vì vậy khi ông Q không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông C khởi kiện yêu cầu ông Q trả nợ là có cơ sở. Mặt khác, tại Bản tự khai ngày 05/9/2019 của ông Q cũng thừa nhận còn nợ ông C số tiền 70.000.000 đồng. Đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Xét hợp đồng vay tài sản được xác lập giữa ông C với ông Q bằng Giấy vay nợ giấy vay tiền ngày 17/4/2015 có nội dung vay số tiền 150.000.000đ, không tính lãi, thời hạn trả nợ cuối năm 2015; xét nội dung của hợp đồng: thỏa thuận hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử xác định đây là hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi theo quy định tại Điều 463, Điều 466 và Điều 470 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tại Điều 463 của Bộ luật dân sự quy định:

“ Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” Tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự quy định:

“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”.

Đến thời hạn trả nợ nhưng ông Q không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên ông Q đã vi phạm thời hạn trả nợ.

Tại khoản 1 Điều 470 của Bộ luật dân sự quy định:

“1. Đối với hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi thì bên cho vay có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên cho vay một thời gian hợp lý, còn bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ hạn, nếu được bên vay đồng ý.” Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã giao giấy triệu tập và thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhiều lần nhưng ông Q vẫn vắng mặt. Điều này thể hiện việc ông Q vi phạm nghĩa vụ trả nợ và tự tước bỏ quyền tham gia tố tụng.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông Lại Văn C là có cơ sở: buộc ông Trần Văn Q phải trả cho ông Lại Văn C số tiền gốc còn nợ là 70.000.000đ (Bảy mươi triệu đồng).

[3]. Việc rút yêu cầu tính lãi của nguyên đơn là tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, HĐXX đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.

[4]. Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với số tiền 70.000.000đ là: 70.000.000đ x 5% = 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng). Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí là 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 235; Điều 244; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466, khoản 1 Điều 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lại Văn C.

1. Buộc ông Trần Văn Q phải trả cho ông Lại Văn C số tiền gốc là 70.000.000 đồng (Bảymươi triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật ông Trần Văn Q không thực hiện nghĩa vụ trả tiền, ông Lại Văn C có quyền yêu cầu thi hành án. Từ khi có đơn yêu cầu thi hành án thì áp dụng khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 để tính lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.

3. Về án phí: Buộc ông Trần Văn Q phải nộp 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả ông Lại Văn C số tiền 1.750.000đ (Một triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số 0002469 ngày 13/8/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đăk Nông.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Trưng hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:22/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về