Bản án 22/2018/HS-ST ngày 25/01/2018 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 25/01/2017 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 440/2017/TLST-HS ngày 29/12/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐXXST-HS ngày 12/01/2018 đối với bị cáo:

Hoàng Văn T – Sinh ngày 15/5/2001, tại Đắk Lắk. Nơi ĐKNKTT: đường A, phường B, tại thành phố C, tỉnh Đắk Lắk; Hiện đang sống lang thang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Tày; Nghề nghiệp: Không; Văn hóa: 06/12; Cha: Hoàng Văn L (sinh năm: 1970); Mẹ: Nguyễn Thị H (sinh năm: 1972); Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 22/7/2017, chuyển sang biện pháp tạm giam ngày 28/7/2017, có mặt tại phiên tòa.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Hoàng Văn T: Ông Hoàng Văn L, sinh năm: 1970 (Là cha của bị cáo) và bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1972 (Là mẹ của bị cáo). Địa chỉ: đường A, phường B, tại thành phố C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn T theo yêu cầu của Tòa án: Ông Lê Đình H – Luật sư Văn phòng luật sư Phan Tấn H – Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

* Bị hại:

1. Ông Nguyễn Hữu C, sinh năm: 1993: Nơi ĐKNKTT: Xóm 10, Hoa S, Anh S, tỉnh Nghệ An. Chỗ ở hiện nay: Chung cư An T, đường X, phường H, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

2. Chị Phạm Thị Ngọc T, sinh năm: 1997; Nơi ĐKNKTT: Hòa A, Cam R, tỉnh Khánh Hòa; Chỗ ở hiện nay: Ký túc xá, số 02 Nguyễn Đình C, thành phố N, tỉnh. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Anh Trần Quý H, sinh năm: 1993; Nơi ĐKNKTT: Đức L, Đức T, tỉnh Hà Tĩnh; Chỗ ở hiện nay: Đường Đoàn Trần N, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

2. Anh Huỳnh Chí T, sinh năm: 1990; Nơi ĐKNKTT: Thôn 2 Tam L, Phú N, tỉnh Quảng Nam; Chỗ ở hiện nay: 60/11 đường Đoàn Trần N, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

3. Anh Huỳnh Trọng T, sinh ngày: 30/7/2001; Nơi cư trú: 43/9 Lê Hồng P, phường H, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

* Người đại diện hợp pháp của người làm chứng Huỳnh Trọng T: Ông Huỳnh Trọng M, sinh năm: 1967 (là cha của anh T) và bà Nguyễn Thị Ánh P, sinh năm: 1972 (là mẹ của anh T). Địa chỉ: 43/9 Lê Hồng P, phường H, , thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22h30 ngày 21/7/2017, Hoàng Văn T cùng với Huỳnh Trọng T đang ngồi chơi trong công viên Yến Sào - đường Phạm Văn Đ, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, thì có một thanh niên tên thường gọi là “Hải Phòng” (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đến rủ T cùng xuống bãi biển cướp tài sản của người khác. T đồng ý và cùng người thanh niên này nhặt 02 ống kim tiêm đã qua sử dụng trong nhà vệ sinh công viên đi bộ xuống bãi biển.

Khi thấy anh Nguyễn Hữu C và chị Phạm Thị Ngọc T đang ngồi tâm sự trên lan can sát biển, T cùng người thanh niên tên “Hải Phòng” đến gần anh C. T cầm kim tiêm dí vào người anh C và nói “Anh đang kẹt tiền, hai em có tiền cho anh xin ít”, anh C nói không có tiền thì bị T dí sát kim tiêm vào người đe dọa. Lúc này, anh C sợ nên rút ví ra đưa T 500.000 đồng. Sau đó, T tiếp tục dí kim tiêm vào người chị T đe dọa yêu cầu đưa tiền, anh C tiếp tục đưa cho T 500.000 đồng. Sau khi cướp được 1.000.000 đồng, T đưa toàn bộ số tiền trên cho người thanh niên tên “Hải Phòng”, rồi cả hai cùng bỏ đi. Người này tiếp tục rủ T đến khu vực Hòn Chồng để cướp tài sản nhưng T không đồng ý nên bỏ đi. Sau đó, Th quay lại chỗ T và rủ T đi vứt 02 ống kim tiêm. Sau khi vứt 02 ống kim tiêm thì T và T quay trở lại công viên tiếp tục ngồi chơi.

Ngay sau khi bị cướp tài sản, anh Nguyễn Hữu C đã theo dõi và cùng anh Huỳnh Chí T và Trần Quý H đến bắt giữ T đưa về trụ sở Công an trình báo.

Tại cơ quan công an, Hoàng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 26/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Hoàng Văn T về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hoàng Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69 và khoản 1 Điều 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Hoàng Văn T từ 5 năm đến 6 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn T đồng ý với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đối với bị cáo T về tội “Cướp tài sản” quy định tại theo điểm d khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đồng thời, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo là người chưa thành niên để xem xét cho bị cáo T được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa hôm nay, bị hại anh Nguyễn Hữu C vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại là chị Phạm Thị Ngọc T và những người làm chứng gồm các anh/chị: Trần Quý H, Huỳnh Chí T, Huỳnh Trọng T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292, Điều 293 và Điều 423 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Văn T thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ để xác định: Khoảng 22h30 ngày 21/7/2017, tại khu vực bãi biển Nha Trang; Hoàng Văn Tcùng thanh niên tên “Hải Phòng” (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đã dùng kim tiêm dí sát vào người anh Nguyễn Hữu C và chị Phạm Thị Ngọc T uy hiếp để chiếm đoạt 1.000.000 đồng (Một triệu đồng). Theo đó, hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đối với bị cáo là đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm, để có tiền tiêu xài đã dùng phương tiện nguy hiểm là kim tiêm dí sát vào người anh C và chị T, uy hiếp nhằm chiếm đoạt tài sản, xâm phạm quyền sở hữu của người khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Bản thân bị cáo tuổi đời còn quá trẻ nhưng không lo học tập, tu dưỡng rèn luyện đạo đức mà lại thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, thể hiện tính tham lam, tư lợi và coi thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần xử phạt bị cáo một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian cần thiết để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, không có tiền án, tiền sự. Nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, khi phạm tội, bị cáo T đang ở tuổi vị thành niên, còn hạn chế về khả năng nhận thức nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 68, 69 và Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 1999 khi lượng hình đối với bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo, tu dưỡng rèn luyện đạo đức, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Đối tượng tên “Hải Phòng” hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đang tiếp tục điều tra, làm rõ; khi nào có đủ căn cứ sẽ tiến hành xử lý sau.

Đối với Huỳnh Trọng T không biết việc Hoàng Văn Tcướp tài sản nên không truy tố trách nhiệm hình sự.

[3] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu, tiêu hủy 02 ống kim tiêm xi-lanh đã qua sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2018 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

[4] Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại Nguyễn Hữu C có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Người bị hại Phạm Thị Ngọc T vắng mặt nên tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu.

[5] Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn T phạm tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng: Điểm d khoản 2 Điều 133; Điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 68; Điều 69 và Điều 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với bị cáo Hoàng Văn T.

Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn T 05 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22/7/2017).

Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy 02 ống kim tiêm xi-lanh đã qua sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/01/2018 giữa Công an thành phố N và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố N).

Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại Nguyễn Hữu C có đơn không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Người bị hại Phạm Thị Ngọc T vắng mặt nên tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự, khi có yêu cầu.

Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn T có mặt được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 25/01/2018 về tội cướp tài sản

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về