Bản án 22/2018/HS-ST ngày 08/06/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 22/2018/HS-ST NGÀY 08/06/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ ĐKPTGTĐB

Trong ngày 08 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1225/2018/QĐST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Trọng H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 21/6/1994; Nơi sinh: huyện P, tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: số nhà 6/1, ấp AB, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Công nhân; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Họ và tên cha: Trần Văn H; sinh năm 1969 (sống); Họ và tên mẹ: Lê Thị Hồng; sinh năm 1970 (sống); Cùng đăng ký thường trú: ấp AB, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre; Bị cáo chưa có vợ, có 01 người chị sinh năm 1991; Từ nhỏ lớn lên sống chung với gia đình và đi học; Tốt nghiệp Trường Cao đẳng Bến Tre, sau đó đi làm cho công ty ở thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 05 tháng 12 năm 2017, điều khiển xe mô tô gây tai nạn làm chết một người nên bị khởi tố và cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay; Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 07 ngày 29/01/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú.

- Bị cáo tại ngoại có mặt tại tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Hồ Văn N, sinh năm 1956; địa chỉ: ấp QB, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Văn H, sinh năm 1969; địa chỉ: 6/1 ấp AB, xã AT, huyện P, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

Người làm chứng:

- Phan Thị T, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp QB, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

- Đào Thị Kim C, sinh năm 1976; địa chỉ: ấp QK, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre.Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 05 tháng 12 năm 2017, Trần Trọng H điều khiển xe mô tô biển số 71C3-235.92 lưu thông trên Quốc lộ 57, theo hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân nhân xã Quới Điền. Đến khoảng 20 giờ 50 phút cùng ngày, khi H điều khiển xe đến Km72+800m, thuộc ấp QB, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre thì thấy cập lề đường bên phải theo hướng lưu thông của xe có hai người phụ nữ đang đứng nói chuyện nên H điều khiển xe mô tô sang phần đường bên trái để tránh. Sau khi vượt qua, H điều khiển xe về sát lề đường bên phải thì phát hiện phía trước có ông Hồ Văn V (sinh năm 1972, cư trú số 120/3 ấp QB, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre) đang đi bộ cùng chiều bên lề phải. Do thấy ông V đi cách lề phải khoảng 1 mét và đi không vững, H nghĩ rằng ông V sẽ đi qua đường nên H điều khiển xe về bên phải ông V để vượt qua nhưng phần tay cầm bên trái của xe va chạm vào phần lưng hông bên phải của ông V, làm H, ông V và xe cùng ngã xuống đường. Hậu quả ông V bị thương ở vùng đầu, được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Thạnh Phú, sau đó được chuyển đến bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu. Tuy nhiên, do vết thương quá nặng nên ông V được chuyển đến bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ chí Minh và đã tử vong vào ngày 06 tháng 12 năm 2017. Tại Biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 21 giờ 05 phút, ngày 05 tháng 12 năm 2017, ghi nhận như sau:

Đoạn đường nơi xảy ra tai nạn là đoạn đường thẳng, được rải nhựa bằng phẳng, mặt đường rộng 6,3 mét; nằm trong phạm vi tác dụng của biển báo hiệu nguy hiểm (biển báo hiệu giao nhau với đường không ưu tiên); phía bên lề trái hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân dân xã Quới Điền có một đường bê tông đi ấp QA, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre. Lấy mép đường bên phải hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân dân xã Quới Điền làm lề chuẩn để đo vẽ và lấy trụ điện số 182/1 làm mốc chuẩn. Kết quả ghi nhận các dấu vết và đo vẽ như sau:

- Vị trí số 1 là vết phanh, có dạng đường thẳng, có hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân dân xã Quới Điền. Vết phanh có kích thước 0,02m x 2,2m; đầu vết phanh cách lề phải là 0,95m, cuối vết phanh cách lề là 0,85m; đầu vết phanh cách trụ báo hiệu đường bộ là 18,8m, đến trụ điện 182/1 là 7,55m.

- Vị trí số 2 là vết cày (1), dạng lõm, đứt khoảng, hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân dân xã Quới Điền. Vết cày có kích thước 0,01m x 4,15m. Cuối vết phanh đến đầu vết cày (1) là 3,13m; đầu vết cày (1) cách lề phải là 0,63m; cuối vết cày (1) trùng gát chân trước bên phải của xe mô tô 71C3-235.92, cách lề phải là 0,75m.

- Vị trí số 3 là vết cày (2), có dạng lõm, đứt khoảng, gồm có hai đường cày song song, có chiều hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân dân xã Quới Điền; mỗi dường cày rộng 0,01m, dài 3m; đầu vết cày (1) đến đầu vết cày (2) là 1,75m; đầu vết cày (2) cách lề phải là 0,3m, cuối vết cày (2) trùng đầu tay cầm thắng trước, cách lề phải là 0,55m. có chiều hướng như trên; đầu vết cày cách lề chuẩn là 0,9m, cuối vết cày cách lề chuẩn là 0,8m, vết cày dài 0,55m, rộng 0,01m, cuối vết cày cách vị trí số 4 là 0,15m.

- Vị trí số 4 là vết máu, có dạng vết loang, không rõ hình dạng, có kích thước 0,3m x 1,6m; đầu vết cày (2) đến tâm vết máu là 02m, tâm vết máu cách lề phải là 1,55m.

- Vị trí số 5 là xe mô tô mang biển kiểm soát 71C3-235.92, xe ngã phải, đầu xe hướng QĐ, đuôi xe hướng P; trục trước xe cách lề phải là 1,35m; trục sau xe cách lề phải là 0,1m; tâm vết máu cách trục sau xe là 1,6m; trục trước xe đến đường giao nhau là 23,1m.

Hiện trường không ghi nhận vị trí nạn nhân té ngã xuống đường do nạn nhân đã được đưa đi cấp cứu.

Qua điều tra, xác minh có đủ căn cứ xác định: Trần Trọng H đã có giấy phép lái xe hạng A1 theo quy định. Ngoài ra, tại phiếu đo nồng độ cồn của trần Trọng H được thực hiện lúc 21 giờ 25 phút, ngày 05 tháng 12 năm 2017 với kết quả là 0,000 mg/l.

Hành vi của Trần Trọng H đã vi phạm khoản 5 Điều 4; khoản 23 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ về nguyên tắc hoạt động giao thông đường bộ; các hành vi bị nghiêm cấm và quy tắc chung.

Tại biên bản khám nghiệm tử thi lúc 09 giờ 15 phút ngày 06 tháng 12 năm 2017, xác định ông Hồ Văn V có một số thương tích điển hình như sau:

- Vùng đỉnh chẩm cách đỉnh vành tay phải 12cm, cách đường chân tóc gáy 10cm có diện sây sát rách da, kích thước 03cm x 2,5 cm.

- Vùng lưng phải cách dưới bờ vai 03cm, cách đường giữa 10cm có diện sây sát da bầm tụ máu, kích thước 12cm x 04cm.

- Mổ vùng đầu nhận thấy: Tổ chức dưới da vùng đỉnh chẩm, thái dương trái bị giập, xuất huyết; Cơ thái dương trái bị giập xuất huyết; Xương hộp sọ vùng đỉnh chẩm, thái dương trái bị vỡ phức tạp, vùng vỡ kích thước 16cm x 05cm. Màng cứng sung huyết, dưới màng cứng bán cầu đại não trái có nhiều máu đông, bán cầu đại não phải có ít máu đông, xuất huyết lan tỏa dưới màng mềm hai bán cầu đại não, trong nhu mô não không có máu tụ; giập não thùy trán trái.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 189/TT ngày 25/12/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bến Tre kết luận: nạn nhân Hồ Văn V chết do chấn thương sọ não gây vỡ xương hộp sọ, xuất huyết tụ máu nội sọ, giập não.

Vật chứng của vụ án được thu giữ gồm: 01 xe mô tô biển kiểm soát 71C3- 235.92, nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, màu trắng-đỏ, dung tích xi lanh 149,8cm3, số máy: G3D4E343167, số khung: 0610GY326759; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 007493, do Công an huyện Thạnh Phú cấp ngày 09/11/2016, tên chủ xe là Trần Trọng H; 01 giấy phép lái xe hạng A1 số 830123004195 mang tên Trần Trọng H.

Ngày 24 tháng 01 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thạnh Phú đã trao trả cho Trần Trọng H: 01 xe mô tô, 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy, 01 giấy phép lái xe đã tạm giữ nêu trên theo Quyết định xử lý vật chứng số 04 ngày 16 tháng 01 năm 2018.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Trần Trọng H đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại về tính mạng theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp của bị hại với tổng số tiền 76.000.000đ (bảy mươi sáu triệu đồng), gồm chi phí cho việc cứu chữa và mai táng. Người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền nêu trên, không có yêu cầu gì khác và có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 14/CT-VKSTP-HS, ngày 26 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú đã truy tố bị cáo Trần Trọng H về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quan điểm cáo trạng đã truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 202; các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo; ấn định thời gian thử thách từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 08-6-2018. Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Trần Trọng H đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường thiệt hại về tính mạng theo yêu cầu của đại diện hợp pháp của bị hại với tổng số tiền 76.000.000đ (bảy mươi sáu triệu đồng), gồm chi phí cho việc cứu chữa và mai táng. Người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền nêu trên, không có yêu cầu bồi thường gì khác nên đề nghị không xem xét.

Bị cáo Trần Trọng H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện giống như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo; thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và có yêu cầu xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Người đại diện hợp pháp của bị hại Hồ Văn V là ông Hồ Văn N có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; về trách nhiệm dân sự không yêu cầu gì khác.

Bị cáo Trần Trọng H nói lời sau cùng: bị cáo xin lỗi gia đình bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thạnh Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng H thừa nhận hành vi: Vào khoảng 20 giờ 50 phút ngày 05 tháng 12 năm 2017, Trần Trọng H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 71C3-235.92, nhãn hiệu YAMAHA, loại EXCITER, màu trắng-đỏ, dung tích xi lanh 149,8cm3 lưu thông trên Quốc lộ 57 theo hướng từ Ủy ban nhân dân xã Tân Phong đi Ủy ban nhân dân xã Quới Điền. Khi đến Km72+800m, thuộc ấp QB, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre, do vi phạm về nguyên tắc hoạt động giao thông đường bộ, quy tắc chung và các hành vi bị cấm quy định tại khoản 5 Điều 4, khoản 23 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật giao thông đường bộ nên xe H điều khiển đã đụng vào người ông Hồ Văn V (sinh năm 1972; cư trú số 120/3 ấp QB, xã Q, huyện P, tỉnh Bến Tre) đang đi bộ phía trước cùng chiều trên phần đường bên phải theo hướng lưu thông của xe. Hậu quả, làm ông V bị té ngã và tử vong do chấn thương sọ não.

[3] Hành vi của bị cáo Trần Trọng H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[4] Hành vi của bị cáo Trần Trọng H là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông công cộng, tính mạng của người khác và gây nên cảnh mất mát đau thương vô hạn cho gia đình nạn nhân. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên phải gánh chịu trách nhiệm hình sự đối với hậu quả do hành vi của bị cáo đã trực tiếp gây ra.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo có nhân thân tốt thể hiện qua việc bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Trong trường hợp này bị hại cũng có một phần lỗi do không đi sát lề đường bên phải. Sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 76.000.000đ (bảy mươi sáu triệu đồng); Trong quá trình điều tra và tại tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn yêu cầu miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Bị cáo có bác ruột Trần Văn Luông là liệt sĩ. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo được quy định tại các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

[6] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) xử phạt bị cáo Trần Trọng H từ 9 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền 76.000.000đ (bảy mươi sáu triệu đồng) và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên đề nghị không xem xét. Xét thấy, đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi mà bị cáo đã thực hiện và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử nhận thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã An Thuận giám sát, giáo dục bị cáo trong suốt thời gian thử thách thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội và cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền 76.000.000đ (bảy mươi sáu triệu đồng) và không có yêu cầu bồi thường gì khác nên không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải nộp theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Trọng H phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

1. Áp dụng khoản 1 Điều 202; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Xử phạt bị cáo Trần Trọng H 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Ấn định thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm là ngày 08-6-2018.

Giao bị cáo Trần Trọng H cho Ủy ban nhân dân xã An Thuận, huyện Thạnh Phú nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thủ tục chuyển giao hồ sơ thi hành án thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

2. Về trách nhiệm dân sự: người đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận đủ số tiền 76.000.000đ (bảy mươi sáu triệu đồng) và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 tháng 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án buộc bị cáo Trần Trọng H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Trong thời hạn mười lăm ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 08/6/2018) bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-ST ngày 08/06/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:22/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về