Bản án 22/2018/HS-PT ngày 23/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 22/2018/HS-PT NGÀY 23/03/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23-3-2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, xét xử phúc thẩm công khai, vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 09/2018/TLPT-HS ngày 19-1-2018, đối với bị cáo Đỗ Văn T, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 78/2017/HSST ngày 5 tháng 12 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Cái Răng.

- Bị cáo có kháng cáo :

Đỗ Văn T (H) sinh năm 1988, tại quận N, thành phố Cần Thơ. Nơi cư trú: 43 đường C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ. Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ Văn G (chết) và bà: Thích Kim I; có vợ: Lê Thị Bích L và 01 con sinh năm 2012;

Tiền án:

- 15/7/2005 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xử phạt 06 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Chấp hành xong án phạt tù ngày 17-01-2010.

- 27/9/2013 bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành xong án phạt tù ngày 12-02-2015.

Tiền sự: Không; bị cáo đang chấp hành bản án 51/2017/HSST ngày 31-7-2017 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long, tại Trại giamChâu Bình, thuộc huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

Trong vụ án còn có 01 bị cáo khác, nhưng không có kháng cáo.

Những người bị hại và người có liên quan trong vụ án không có kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 50 phút ngày 18-1-2017, Đỗ Văn T điều khển xe môtô, chở Lê Thị Bích L đến nhà trọ K, khu vực 8, phường P, quận C, thành phố Cần Thơ. T dừng xe lại và đi vào phòng trọ của Trần Khánh U và Bùi Thị Mộng Ê, lấy 01 túi xách, mang ra đưa cho L, rồi điều khiển xe, nhanh chóng tẩu thoát. Ông U phát hiện và cùng với nhiều người sống xung quanh, rượt đuổi theo, nhưng không kịp. L lục túi xách, thấy trong đó có dây chuyền, blắc tay và đôi bông tai bằng vàng; 2.000.000 đồng và một số giấy tờ cá nhân. L cầm số vàng nói trên tại tiệm vàng Ô, khu vực 3, phường B, quận B1, thành phố Cần Thơ, với số tiền là 14.000.000 đồng.

Ông T và bà Ê khai - số tài sản bị mất, gồm: dây chuyền vàng Ý mua với giá 17.167.000 đồng (hóa đơn - BL.36), blắc vàng Ý mua với giá 9.000.000 đồng, đôi bông vàng mua với giá 2.129.000 đồng (hóa đơn - BL.37), 2.000.000 đồng VNĐ, tổng cộng là 30.296.000 đồng và một số giấy tờ cá nhân.

Theo kết quả định giá, riêng dây chuyền và đôi bông tai có giá là 19.296.000 đồng.

Tại bản án số 78/2017/HS-ST ngày 5-12-2017, Tòa án nhân dân quận Cái Răng đã áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; xử phạt Đỗ Văn T 03 năm 06 tháng tù.

Ngoài ra, còn có các quyết định về hình phạt đối với bị cáo Lê Thị Bích L và án phí trong vụ án.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 5-12-2017 bị cáo T kháng cáo, xin giảm mức hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T vẫn giữ nguyên kháng cáo. Bị cáo không có cung cấp thêm chứng cứ về các tình tiết mới.

Kiểm sát viên nhận định bản án sơ thẩm đã tuyên có căn cứ và đúng pháp luật. Mức hình phạt đã tuyên là không nặng, đã có xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, nên đề nghị giữ nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Quá trình tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm tuân thủ các quy định của Pháp luật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho những người tham gia tố tụng. Các chứng cứ tại hồ sơ đủ để kết luận về hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như để giải quyết các vấn đề khác có liên quan.

[1] Bị cáo nghiện ma túy và vì nghiện ma túy mà phạm tội. Quá trình phạm tội kéo dài. Bị cáo đã chấp hành án phạt 08 năm tù về các tội Mua bán trái phép chất ma túy và Trộm cắp tài sản, nhưng vẫn chưa chịu cải sửa. Chưa được xóa án tích, đã tái phạm. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ khác tại hồ sơ vụ án. Số tài sản đã chiếm đoạt có giá trị hơn 21.000.000 đồng. Cần xét xử bị cáo theo Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần này là tái phạm.

[2] Hiện nay tội phạm này còn xảy ra nhiều, gây thiệt hại rất lớn về tài sản, gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hội. Nên cần xử phạt cho nghiêm mới đảm bảo tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Khi lượng hình Tòa án sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tuy nhiên mức hình phạt đã tuyên là có nặng, nên giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[3] Bị cáo phạm tội có đồng phạm nên khi lượng hình cần áp dụng quy định tại các Điều 20 và 53 Bộ luật Hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; các Điều 20 và 53 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt Đỗ Văn T 03 (ba) năm tù.

Căn cứ vào Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tổng hợp hình phạt với bản án số 51/2017/HSST ngày 31-7-2017 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Hình Phạt chung bị cáo phải chấp hành là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10-4-2017.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành.

Bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HS-PT ngày 23/03/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:22/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về