Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 26/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2018 VỀ LY HÔN,TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 26 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 502/2017/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2017 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 18/2018/QĐXX-ST ngày 06 tháng 02 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phan Thị Hồng H, sinh năm 1986; có mặt.

- Bị đơn: Anh Tạ Thanh M, sinh năm 1982; vắng mặt

Địa chỉ: Ấp LT, xã GL, huyện TB, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 7 năm 2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - nguyên đơn chị Phan Thị Hồng H trình bày:

Chị và anh M chung sống với nhau năm 2003, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã GL, huyện TB, tỉnh Tây Ninh. Chị và anh M chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh M không lo làm ăn, lại còn cờ bạc. Ngoài ra, anh M còn sử dụng ma túy. Chị khuyên can nhiều lần nhưng anh M không từ bỏ ma túy. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 6 năm 2016 đến nay.

Chị thấy tình cảm vợ chồng không còn do đó chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh M.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Tạ Thanh B, sinh ngày 05-8-2004, hiện cháu B đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Anh Tạ Thanh M là bị đơn đã được Tòa án niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên không thể hiện lời khai của anh M.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Riêng bị đơn anh M chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ đương sự.

+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình;

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H đối với anh M.

Về con chung: Giao cháu B cho chị H tiếp tục nuôi. Ghi nhận chị H không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Tạ Thanh M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh M.

[2] Về hôn nhân: Chị H và anh M chung sống với nhau năm 2003, có tổ chức lễ cưới có đăng ký kết hôn ngày 04-6-2015 tại Ủy ban nhân dân xã GL, huyện TB, tỉnh Tây Ninh. Chị H và anh M chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo chị H khai là do anh M không lo làm ăn, lại còn cờ bạc; ngoài ra anh M còn sử dụng ma túy. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 6 năm 2016 đến nay.

Qua xác minh chính quyền địa phương thấy rằng anh M là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Ngoài ra, vào năm 2015, chị H đã nộp đơn yêu cầu ly hôn nhưng sau đó rút đơn để vợ chồng có cơ hội đoàn tụ. Nhưng sau đó, vợ chồng tiếp tục phát sinh mâu thuẫn. Do đó, xét tình trạng vợ chồng giữa chị H và anh M đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; Căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

[3] Về con chung: Chị H và anh M có 01 con chung là cháu Tạ Thanh B, sinh ngày 05-8-2004, hiện đang sống với chị H. Xét thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, chị H yêu cầu tiếp tục nuôi con. Qua hỏi ý kiến của cháu B cũng có nguyện vọng sống với chị H. Do đó, căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu Bình cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh M không cấp dưỡng nuôi con chung do chị H không yêu cầu.

Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 300.000 đồng.

Xét ý kiến của Kiểm sát viên có cơ sở chấp nhận. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Phan Thị Hồng H đối với anh Tạ Thanh M.Chị Phan Thị Hồng H được ly hôn anh Tạ Thanh M.

2. Về con chung: Giao chị Phan Thị Hồng H tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là cháu Tạ Thanh B, sinh ngày 05-8-2004.

Anh Tạ Thanh M không cấp dưỡng nuôi con chung do chị Phan Thị Hồng H không yêu cầu.

Anh Tạ Thanh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Phan Thị Hồng H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0009163 ngày 06 tháng 10 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng; chị Phan Thị Hồng H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh. Đối với đương sự vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 26/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về