Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ XIN LY HÔN

Trong ngày 25/9/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 92/2018/TLST-HNGĐ ngày 21/6/2018 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/QĐST-HNGĐ ngày 10/9/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1998. Có mặt

Trú tại: Thôn Th, xã Đ, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

Bị đơn: Anh Chu Văn K, sinh năm 1993. Vắng mặt

Trú tại: Thôn Ph, xã Tr, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án của Nguyên đơn thể hiện: Chị Nguyễn Thị Q về chung sống như vợ chồng với anh Chu Văn K từ ngày 02/9/20015, được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Đến ngày 22/6/2016 chị và anh K đăng ký kết hôn tại UBND xã Tr trên cơ sở tự nguyện. Sau khi cưới vợ chồng chung sống vui vẻ, hòa thuận được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn và cuối năm 2016 chị đã làm đơn xin ly hôn, do Tòa án hòa giải chị đã rút đơn để vợ chồng đoàn tụ tạo cơ hội cho anh K sửa chữa lỗi lầm. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng chưa hiểu nhau trong cuộc sống vợ chồng, dẫn đến hay cãi nói nhau. Ngoài ra anh K ham chơi bời không chịu làm ăn và vay nợ nhiều người. Từ khi chị rút đơn anh vẫn không sửa chữa nên tình cảm vợ chồng không được cải thiện và ngày càng lạnh nhạt. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2018 cho đến nay, vợ chồng chấm dứt mọi quan hệ từ đó. Nay chị Q thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống nên đề nghị được ly hôn.

Bị đơn không đến Tòa án làm việc nhưng theo lời khai của bị đơn với Tòa án thể hiện: Anh K thừa nhận lời khai của chị Q về thời điểm kết hôn, điều kiện kết hôn và thời gian chung sống như chị Q trình bày là đúng. Do thời gian chung sống với nhau ngắn, vợ chồng chưa có sự hiểu và thông cảm với nhau trong cuộc sống nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát cãi, nói nhau. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2018 và chấm dứt mọi quan hệ từ đó. Nay chị Q đề nghị được ly hôn, anh K cho rằng vợ chồng vẫn còn tình cảm, mâu thuẫn vợ chồng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nên anh không đồng ý ly hôn nhưng nếu chị Q cương quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Về con chung: Hai bên xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Chu Nhật N, sinh ngày 20/02/2016, hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con, anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, trích chia công sức: Hai bên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Chu Văn K không đến Tòa án làm việc, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cũng như giấy báo phiên tòa đầy đủ, anh K đề nghị giải quyết vắng mặt nên xét xử vắng mặt anh K.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q và anh Chu Văn K kết hôn với nhau là hoàn toàn tự nguyện và hợp pháp.

Quá trình chung sống: Vợ chồng sống hòa thuận được một thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng chưa hiểu nhau trong cuộc sống vợ chồng, kết hợp với kinh tế khó khăn do anh ham chơi dẫn đến vợ chồng hay cãi nói nhau. cuối năm 2016 chị đã làm đơn xin ly hôn, do Tòa án hòa giải chị đã rút đơn để vợ chồng đoàn tụ nhưng từ khi chị rút đơn tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện và ngày càng lạnh nhạt. Nay chị đề nghị được ly hôn, anh không đồng ý và cho rằng nếu chị cương quyết xin ly hôn thì anh đồng ý. Xét thấy: Vợ chồng mới chung sống thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng chưa thực sự hiểu và thông cảm với nhau, kết hợp với điều kiện kinh tế khó khăn anh lại ham chơi nên thường xuyên cãi nói nhau, đối xử với nhau không còn tình cảm, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng xin ly hôn của chị là phù hợp nên cần chấp nhận để giải phóng cho cả hai bên.

[3] Về con chung: Hai bên xác nhận vợ chồng có 01 con chung là Chu Nhật N, sinh ngày 20/02/2016 hiện đang ở với chị. Ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, anh không yêu cầu giải quyết. Xét thấy: Cháu N hiện đang ở với chị cuộc sống ổn định, hơn nữa cháu còn nhỏ chưa đủ 36 tháng tuổi nên nguyện vọng xin nuôi con của chị là phù hợp cần chấp nhận. Chị không yêu cầu phí tổn nuôi con nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung, công nợ, trích trả công sức: Các đương sự không yêu cầu xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Q phải chịu án phí Ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quan hệ vợ chồng: Chị Nguyễn Thị Q được ly hôn anh Chu Văn K.

Về con chung: Giao cháu Chu Nhật N, sinh ngày 20/02/2016 cho chị Quyên trực tiếp nuôi dưỡng. Phí tổn nuôi con không xem xét giải quyết. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau ly hôn, không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Các đương sự không yêu cầu giải quyết.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000đ án phí Ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị Q đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí theo biên lai thu số AA/2017/0003807 ngày 15/6/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 25/09/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về