Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 21/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/03/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, Toà án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 533/2017/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 12 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐST- HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm: 1985; Địa chỉ: An Hòa, xã An Thạnh, huyện N, tỉnh T.

2. Bị đơn: Anh Lê Phương T, sinh năm: 1987; Địa chỉ: An Hòa, xã An Thạnh, huyện N, tỉnh T.

Hiện đang chấp hành án tại trại giam Châu Bình.

Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 28/11/2017 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là chị Phạm Thị L trình bày:

Chị và bị đơn là anh Lê Phương T chung sống với nhau vào năm 2006 trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Thạnh, huyện N, tỉnh T vào ngày 28/3/2008. Sau khi cưới vợ chồng chung sống tại An Hòa, xã An Thạnh, huyện N, tỉnh T. Thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng gần 02 năm đầu thì anh T phạm tội và bị bắt. Rất nhiều lần anh T chấp hành xong hình phạt tù về rồi lại tiếp tục tái phạm và tiếp tục bị bắt. Từ khi kết hôn đến nay, anh T chấp hành hình phạt tù đến 5 lần. Từ đó vợ chồng anh chị đã sống ly thân. Do tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên chị yêu cầu xin ly hôn với anh T.

Trong quá trình chung sống chị và anh T có 02 con chung tên là Lê Phạm Huỳnh Như, sinh ngày 08/7/2007 và cháu Lê Phạm Huỳnh Mai, sinh ngày27/7/2009. Nhiều lần anh T bị bắt và anh chị sống ly thân cho đến nay, chị là người nuôi dưỡng cả 02 con chung. Khi ly hôn, chị có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung (kể cả nợ phải thu và nợ phải trả): không có vàchị không có yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản ghi ý kiến đương sự ngày 19/12/2017, bị đơn là anh Lê Phương T trình bày:

Anh và vợ anh sống chung có đăng ký kết hôn vào năm 2008. Hôn nhân do tự tìm hiểu. Vợ chồng chung sống hạnh phúc không có xảy ra mâu thuẩn nhưng vào đầu năm 2013, anh bị bắt và phải chấp hành án, vợ anh có đến thăm anh. Thời gian gần đây, vợ anh đến thăm anh và có yêu cầu xin ly hôn với anh. Anh thấy rằng hôn nhân giữa anh và vợ anh cũng không còn thương nhau nữa và anh cũng không có điều kiện để chung sống, chăm sóc cho vợ con anh được nữa nên anh cũng đồng ý thuận tình ly hôn với chị L.

Về con chung: Anh và vợ anh có 02 con chung như vợ anh trình bày, do anh phải chấp hành án không có khả năng là người trực tiếp nuôi con nên anh đồng ýgiao con chung cho vợ anh trực tiếp nuôi con và anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và về nợ chung: không có nên anh không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Anh Lê Phương T có đơn xin xét xử vắng mặt vì anh đang phải chấp hành án nên không thể tham gia giải quyết vụ án xin ly hôn được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng: Anh Lê Phương T là bị đơn trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa nhưng anh có đơn xin xét xử vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị L và anh Lê Phương T chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã An Thạnh, huyện N, tỉnh T vào ngày 28/3/2008, hôn nhân do tự nguyện nên quan hệ hôn nhân của anh chị được coi là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Trong thời gian chung sống, cuộc sống vợ chông của chị L và anh T hạnh phúc đến năm 2013 thì anh T phải đi chấp hành án phạt tù tại Tiền Giang, sau đó, anh T tiếp tục phạm tội và phải chấp hành án tại trại giam Châu Bình nên vợ chồng anh T và chị L đã sống ly thân với nhau từ thời gian anh T bị chấp hành án cho đến nay, không có thời gian đoàn tụ. Từ khi vợ chồng sống ly thân, anh chị đã không có thời gian quan tâm chăm sóc với nhau như vợ như chồng. Nay tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên chị L yêu cầu xin ly hôn với anh T. Hội đồng xét xử xét thấy: quan hệ hôn nhân của chị L và anh T đã trầm trong vì chị L và anh T đã có thời gian ly thân với nhau từ năm 2013 cho đến nay, không có thời gian đoàn tụ, chăm sóc lẫn nhau như vợ chồng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, theo yêu cầu xin ly hôn của chị L, và anh T cũng đồng ý ly hôn với chị L nên cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa Chị Phạm Thị L và anh Lê Phương T.

- Về con chung: Chị L đối với anh T có 02 con chung tên là Lê Phạm Huỳnh Như, sinh ngày 08/7/2007 và cháu Lê Phạm Huỳnh Mai, sinh ngày 27/7/2009. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị L và anh T sống ly thân, anh T phải chấp hành án phạt tù, chị phải gửi cả 02 cháu cho ông bà nội trực tiếp chăm sóc, chị đi làm lo cho 02 cháu. Đối với 02 cháu Huỳnh Như và Huỳnh Mai đều trên 07 tuổi, Tòa án tiến hành lấy ý kiến của cả hai cháu, cả hai cháu đều có ý kiến muốn sống với cha. Tuy nhiên, xét thấy hiện tại anh T đang phải chấp hành án phạt tù nên không thể trực tiếp nuôi con chưa thành niên được mặc dù các cháu có yêu cầu được sống với cha khi cha mẹ ly hôn. Mặt khác, tại biên bản ghi ý kiến của anh T, anh T đồng ý giao cả hai con chung chưa thành niên cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, cần ghi nhận sự thỏa thuận của anh T và chị L về việc giao cả hai con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình thì người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị L, không trái với quy định pháp luật nên ghi nhận.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị L và anh T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị L phải chịu số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật dân sự.

Áp dụng các Điều 55, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về quy định mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Thị L và anh Lê Phương T.

2. Về con chung: Chị Phạm Thị L và anh Lê Phương T có 02 con chung tên là Lê Phạm Huỳnh Như, sinh ngày 08/7/2007 và cháu Lê Phạm Huỳnh Mai, sinh ngày 27/7/2009. Giao cả hai con chung cho chị L được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con (Do chị L không có yêu cầu).

Anh Lê Phương T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84, Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị Phạm Thị L và anh Lê Phương T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Chị Phạm Thị L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0013672 ngày 21 tháng 11 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm.

Trong thời hạn 15 ngày kể: Đối với nguyên đơn có mặt tại tòa thì kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt tại tòa thì kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy Ban nhân dân xã nơi cư trú của bị đơn có quyền kháng cáo đối với bản án này để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 21/03/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về