Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 07/0/2018 về ly hôn và nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T- THANH HOÁ

BẢN ÁN 22/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/03/2018 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 07 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh Hoá mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 277/2017/TLST-HNGĐ ngày 03/10/2017 về tranh chấp HN&GĐ. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2018/ HNGĐ-ST ngày 10/01/2018 giữa các đương sự.

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L - Sinh năm: 1997

Trú tại: Xóm 7, xã T, huyện T - Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Lê Văn Q - Sinh năm 1993 (vắng mặt) Trú tại: Xóm 3b, xã T, huyện T - Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 22 tháng 9 năm 2017, lời khai tại Tòa án nhân dân huyện T và tại phiên toà chị Nguyễn Thị L, nguyên đơn trình bày:

[1] Về Hôn nhân: Chị và anh Lê Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 05/4/2016, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa.

Quá trình chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp, nhất là sau khi chị sinh con anh Q không quan tâm đến vợ con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cải nhau. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2017 trong thời gian sống ly thân anh Q có những lời nói xúc phạm chị và gia đình, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng mâu thuẫn trầm trọng. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn. Chị làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Văn Q.

[2] Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung, cháu Lê Nguyễn Khánh A sinh ngày 19/12/2016, hiện nay cháu Khánh A đang ở với chị nguyện vọng của chị là được nuôi con và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về tài sản và công nợ: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của ông Lê Văn Q ( bố đẻ anh Q).

Về thời gian kết hôn, chị Nguyễn Thị L và anh Lê Văn Q kết hôn vào ngày 05/4/2016, đăng ký kết hôn tại UBND xã T và vợ chồng có một con chung là cháu Lê Nguyễn Khánh A sinh ngày 19/12/2016 như chị L trình bày là đúng. Trước khi chị L gửi đơn xin ly hôn thì ban hòa giải thôn đã hòa giải, nhưng vợ chồng vẫn không đoàn tụ được. Hiện tại anh Q không có mặt tại địa phương, khoảng 2 đến 3 tháng anh Q về một lần, hiện nay anh Q ở đâu tôi cũng không biết.

[4] Trước khi nộp đơn khởi kiện ban hòa giải thôn tại nơi cư trú của vợ chồng đã tiến hành hòa giải theo đơn xin ly hôn của chị L. Tại thời điểm nộp đơn khởi kiện chị L đã cung cấp địa chỉ “ Nơi cư trú” của anh Lê Văn Q và đã gửi đơn xin ly hôn và được UBND xã T, huyện T xác nhận đó là địa chỉ của anh Q và thời điểm chị L nộp đơn khởi kiện anh Q đang có mặt tại địa phương.

Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án không tống đạt được thông báo thụ lý vụ án cho anh Lê Văn Q. Tòa án đã thực hiện đầy các quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tại thời điểm nộp đơn khởi kiện chị L đã cung cấp địa chỉ “Nơi cư trú” của anh Lê Văn Q và được UBND xã T, huyện T, xác nhận đó là địa chỉ của anh Q và tại thời điểm chị L nộp đơn khởi kiện anh Q đang có mặt tại địa phương. Quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và theo hướng dẫn tại điểm d khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số: 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án đã thụ lý vụ án đúng quy định. Sau khi thụ lý Tòa án không tống đạt được thông báo về việc thụ lý vụ án cho anh Q, do nh Q bỏ đi không còn ở nơi cư trú mà không thông báo cho chị Loan biết về nơi cư trú mới. Theo quy định tại khoản 2 Điều 40, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng 2015 thì được coi là cố tình giấu địa chỉ và Tòa án giải quyết theo thủ tục chung. Do vụ án không tiến hành hòa giải được, căn cứ vào khoản 2 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án không tiến hành hòa giải và vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về Hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Văn Q kết hôn với nhau vào ngày 05/4/2016 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh Q là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng về quan điểm, tính tình không hợp nhất là sau khi sinh con thì vợ chồng ngày càng mâu thuẫn. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4/2017 trong thời gian sống ly thân anh Q có những lời nói không đúng mức đã xúc phạm danh dự, uy tín chị và gia đình, dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng mâu thuẫn trầm trọng hơn. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Q đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị L.

[3] Về con chung: Chị L và anh Q có 01 con chung, cháu Lê Nguyễn Khánh A sinh ngày 19/12/2016, hiện nay cháu Khánh A đang ở với chị L nguyện vọng của chị là được nuôi con và không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét yêu cầu nuôi con của chị L: Trong thời gian trước đây và hiện nay cháu Khánh A do chị L trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc hàng ngày và đảm bảo tốt về mọi mặt. Căn cứ vào điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, có căn cứ chấp nhận nguyện vọng của chị L là được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Nguyễn Khánh A

[4] Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: điển e khoản 1 Điều 192; khoản 2 Điều 40; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 2 Điều 207; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Lê Văn Q được ly hôn.

2.Về con chung: Giao cháu Lê Nguyễn Khánh A sinh ngày 19/12/2016 cho chị Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Q không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Q có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Chị Nguyễn Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí số: AA/2016/0003001, ngày 29/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T - Thanh hóa .

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc được niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

312
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2018/HNGĐ-ST ngày 07/0/2018 về ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:22/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về