Bản án 22/2017/HNGĐ-ST ngày 26/07/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 22/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 26 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 121/2017/TLST-HNGĐ, ngày 24 tháng 5 năm 2017 về “Tranh chấp về ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2017/QĐXX-ST ngày 05 tháng 7 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1987; địa chỉ cư trú: thôn X, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng: Có mặt tại phiên tòa.

2. Bị đơn: Anh Đào Văn D, sinh năm 1987; địa chỉ cư trú: thôn X, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng: Vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 15/5/2017 và bản tự khai ngày 29/5/2017 chị S trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Đào Văn D thời gian năm 2008 có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 06 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2015 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau trong làm ăn kinh tế và quan hệ xã hội. Anh D chơi bời cờ bạc, sống buôn thả, không có trách nhiệm đến vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo để anh D thay đổi cách sống để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung.

Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh D.

Về con chung: Có 01 con là Đào Duy L, sinh ngày 14/10/2009 hiện đang do chị S nuôi dưỡng. Chị xin tiếp tục nuôi con đến khi đủ 18 tuổi, trên cơ sở nguyện vọng của cháu. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị S không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng vì chị làm công nhân, mỗi tháng thu nhập kinh tế ổn định 06 triệu đồng và có nơi ăn ở ổn định đủ điều kiện để nuôi con hơn anh D.

Về tài sản, công nợ: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh D vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của chị S. Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp và hòa giải; thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho cơ quan Thừa phát lại, gia đình anh D và Chính quyền địa phương để giao lại các văn bản tố tụng trên. Anh D đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên, nhưng không đến Tòa án và UBND xã T, huyện K để trình bày lời khai; tham gia hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án cùng Chính quyền địa phương đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho gia đình anh D để giao lại cho anh D. Anh D vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Điều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh D là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị S tự nguyện kết hôn với anh D năm 2008 có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau trong làm ăn kinh tế và quan hệ xã hội, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Mặc dù gia đình, thôn xóm đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị S xin ly hôn anh D là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị S được ly hôn anh D là phù hợp. 

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Nguyễn Thị S được ly hôn anh Đào Văn D.

3. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Đào Duy L, sinh ngày 14/10/2009 hiện đang do chị S nuôi dưỡng. Cháu L có nguyện vọng được ở với chị S, cần chấp nhận. Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Đào Duy L cho chị S nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị S không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Chị S phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Anh D là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị S tự nguyện kết hôn với anh D năm 2008 có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 06 năm. Song trong quá trình sống chung mâu thuẫn phát sinh từ năm 2015 do phong cách sống không còn phù hợp, nghi ngờ nhau trong làm ăn kinh tế và quan hệ xã hội, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2015 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị S xin ly hôn anh D là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị Sáu được ly hôn anh D là phù hợp.

 [3] Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Đào Duy L, sinh ngày 14/10/2009 hiện đang do chị S nuôi dưỡng. Cháu L có nguyện vọng được ở với chị S được chấp nhận. Cần giao cháu L cho chị Sáu nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị S không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra giải quyết.

 [4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết. Chị S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị S được ly hôn anh Đào Văn D.

2. Về con chung: Giao cháu Đào Duy L, sinh ngày 14/10/2009 cho chị S nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị S phải chịu 300.000,00 (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, những được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA.0006105 ngày 24/5/2017 tại Chi cụ Thi hành án dân sự huyện K. Chị S đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm. Chị S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 22/2017/HNGĐ-ST ngày 26/07/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:22/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về