Bản án 220/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 220/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 277/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2021 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 270/2021/QĐ-ST ngày 25 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 251/QĐ-TA ngày 10 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị G, sinh năm 1996; địa chỉ: Số 396, ấp 4, xã T.N, huyện C.L, tỉnh Đ.T, (Có mặt).

Bị đơn: Ông Lê Văn V, sinh năm 1990; địa chỉ: ấp B.Q, xã B.P.X, huyện C.

M, tỉnh A.G, (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện đề ngày 31/3/2021, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Lê Thị G trình bày:

- Về hôn nhân: Chị và anh Lê Văn V quen biết, tìm hiểu và đi đến hôn nhân vào năm 2016, vợ chồng có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân xã B.P.X, huyện C.M. Thời gian đầu sau hôn nhân, cuộc sống, tình cảm vợ chồng đằm ấm, hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẩn do cả hai không còn tôn trọng nhau, thường xuyên xảy ra bất đồng quan điểm, cự cãi. Sau khi đã dành thời gian hàn gắn nhưng không thành, nhận thấy tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị xin ly hôn với anh Lê Văn V.

- Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Lê Thị Mỹ T, sinh ngày 30/7/2017; Hiện nay, cháu T đang sống với anh Lê Văn V. Sau khi ly hôn, chị G đồng ý để anh V được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Chị G không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Bản photo giấy CMND Lê Thị G, bản sao sổ hộ khẩu; Bản sao Giấy khai sinh của cháu Lê Thị Mỹ T, sinh ngày 17/11/2017; Tờ tự khai và đơn khởi kiện ngày của Lê Thị G ngày 05/3/2021; Trích lục đăng ký kết hôn, đơn xin xác nhận nơi cư trú.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp hòa giải để động viên các bên có thể giải quyết các bất đồng quan điểm, hàn gắn đoàn tụ với nhau nhưng phía bị đơn Lê Văn V vắng mặt nên không thể tiến hành hòa giải được, anh V không có ý kiến phản hồi, cũng như ý kiến gì về việc cấp dưỡng nuôi con chung, không ý kiến về cấp dưỡng nuôi con chung.

Tại phiên tòa, nguyên đơn Lê Thị G có mặt, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh Lê Văn V; đồng ý để anh Vũ được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung, chị G phải cấp dưỡng nuôi con. Bị đơn Lê Văn V vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Các bên không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn, nguyện vọng nuôi con chung được xác định là tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn Lê Văn V, sinh năm 1990, nơi cư trú tại xã B.P.X, huyện C.M, tỉnh An Giang. Do đó, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C.M, tỉnh An Giang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định pháp luật cho các bên đương sự. Tại phiên tòa lần thứ nhất được mở vào ngày 10/6/2021, bị đơn vắng mặt không rõ lý do thuộc trường hợp hoãn phiên tòa. Phiên tòa được mở lại lần thứ hai ngày 29/6/2021, Tòa án tống đạt hợp lệ quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về tính hợp pháp: Chị G, anh V quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân dựa trên sự tự nguyện, không có yếu tố lừa dối hay ép buộc, thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã B.P.X, huyện C.M vào ngày 17/11/2017, phù hợp với trích lục Giấy chứng nhận kết hôn số 398/TLKH - BS mà chị G cung cấp có trong hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ hôn nhân giữa chị G, anh V là hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân:

Thời gian đầu sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng giữa chị G, anh V hòa thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2019 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, mối quan hệ vợ chồng trở nên căng thẳng, mâu thuẩn ngày càng gay gắt khi luôn xảy ra cự cãi, chị G đã về nhà cha mẹ ruột tại huyện C.L, tỉnh Đ.T, vợ chồng không còn sống chung từ đó đến nay, kể từ thời điểm ly thân, cả hai ít liên lạc qua lại, không dành sự quan tâm, yêu thương lẫn nhau.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập đến phiên hòa giải để động viên các bên hàn gắn tình cảm, hàn gắn những bất đồng đã xảy ra, vận động vợ chồng cùng chung sống với nhau nhưng anh V đều vắng mặt. Tuy nhiên, căn cứ vào lời trình bày của chị G thể hiện mâu thuẩn vợ chồng nghiêm trọng, âm ĩ, khó có thể hàn gắn, thời gian qua anh V không đưa ra căn cứ, biện pháp gì nhằm hàn gắn mối quan hệ căng thẳng với chị G, vợ chồng tiếp tục tình trạng sống ly thân, không quan tâm đến nhau, cuộc sống của mỗi người thể hiện tính riêng lẽ, không còn gắn kết, không còn mục tiêu để xây dựng một gia đình hạnh phúc. Điều đó, chứng tỏ mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận khởi kiện cho chị Lê Thị G được ly hôn anh Lê Văn V là phù hợp.

[3] Về con chung: vợ chồng có 01 con chung Lê Thị Mỹ T, sinh ngày 30/7/2017, hiện cháu T đang sống với anh Lê Văn V. Sau khi ly hôn, chị G đồng ý để anh V được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, chị G không cấp dưỡng nuôi con.

Trên cơ sở đánh giá những mặt tích cực, lợi ích từ việc giao con chưa thành niên cho bên vợ hay chồng nuôi dưỡng có xem xét đến điều kiện phát triển về mọi mặt của cháu. Cháu Mỹ T từ khi cha mẹ ly thân sống cùng với anh V đến nay, vẫn phát triển bình thường cả về thể chất và tinh thần. Mặt khác, chị G đồng ý để anh V tiếp tục nuôi con chung, không tranh chấp về quyền nuôi con. Do đó, cần ổn định cuộc sống, ổn định tâm lý của cháu T, Hội đồng xét xử thống nhất tiếp tục giao cháu T cho anh V tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Các đương sự không yêu cầu, đề cập việc cấp dưỡng nuôi con, nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu, Tòa án không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: chị Lê Thị G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 273; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị G. Cho chị Lê Thị G được ly hôn với anh Lê Văn V.

Giấy chứng nhận kết hôn số 130, do Ủy ban nhân dân xã B.P.X, huyện Chợ Mới cấp ngày 17 tháng 11 năm 2017 cho Lê Thị G với anh Lê Văn V, không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao con chung Lê Thị Mỹ T, sinh ngày 30/7/2017 cho anh Lê Văn V được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục; chị Lê Thị G không phải cấp dưỡng nuôi con.

Không bên nào được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: không có, nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị G phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ từ số tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số 0002237 ngày 31 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; chị Lê Thị G đã nộp xong.

5. Quyền kháng cáo: Chị Lê Thị G có mặt, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Lê Văn V vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 220/2021/HNGĐ-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:220/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về