Bản án 219/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 219/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 223/2020/HSST ngày 09/9/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 218/2020/QĐXXST-HS ngày 10/9/2020, đối với bị cáo sau:

Họ và tên: Nguyễn Văn T; Sinh năm: 1992; Giới tính: Nam; HKTT: Thôn Tráng, thị trấn Cành Nàng, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Q; Con bà: Nguyễn TL; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án tiền sự: Không;

Danh bản số: 344, lập ngày 26/5/2020, tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 17/5/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

Bị hại:

1. Anh Nguyễn Quý Đ; Sinh năm: 1988; HKTT tại: Xã Quỳnh Sơn, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình;

2. Chị Phạm Thị Th; Sinh năm: 1992; HKTT: Xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình;

Cùng cư trú tại: Ngõ 236/45, Đại Từ, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội.

(Các bị hại đều vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/5/2020, Nguyễn Văn T hẹn gặp bạn là anh Nguyễn Quý Đ (Sinh năm: 1988; HKTT: Xã Quỳnh Sơn, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình) trước đây làm cùng công ty sữa Nutifood, tại quán trà đá vỉa hè trên đường Mễ Trì, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Quá trình ngồi nói chuyện, T thấy anh Đ sử dụng chiếc điện thoại Iphone 6S Plus, màu vàng, ốp lưng silicon màu trắng, nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh Đ lấy tiền tiêu và trả nợ. T sau đó lấy lý do điện thoại của mình đang trục trặc, không liên lạc được với người ship hàng nên hỏi mượn điện thoại của anh Đ để gọi. Sau khi mượn được điện thoại, T giả vờ đi ra ngoài nghe điện thoại để tìm cơ hội chiếm đoạt và lợi dụng lúc anh Đ không chú ý, T đã cầm theo điện thoại lên xe ôm bỏ đi đến khu vực siêu thị BigC-Thăng Long thuộc phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Khoảng 15 giờ cùng ngày, chị Phạm Thị Th (Sinh năm: 1992; HKTT: Xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, là vợ anh Đ) nhắn tin qua Zalo cho anh Đ. Do đã biết mật khẩu màn hình điện thoại của anh Đ nên T nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị Th, T sau đó sử dụng tài khoản Zalo trong điện thoại của anh Đ nhắn tin cho chị Th bảo chuyển cho T số tiền 10.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười triệu đồng) để gom hàng bán kiếm lời. Chị Th tin tưởng người nhắn tin Zalo là chồng mình nên đồng ý (lúc này chị Th đang đi xe khách đi từ Phú Thọ đến Hà Nội). Sau đó, T đi đến cửa hàng điện thoại “D Apple” của anh Nguyễn Trọng D (Sinh năm: 1985; HKTT: Xóm Hoa Thám, xã La Phù, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội) tại địa chỉ: N02, liền kề 33, khu đất dịch vụ 16, 17, 18 AB, phường Dương Nội, quận Hà Đ, thành phố Hà Nội để nhờ chuyển tiền qua tài khoản của anh D, thỏa thuận phí chuyển tiền là 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng). Sau đó, T lấy số tài khoản 8200188838888 của anh D và nhắn cho chị Th. Khoảng 16 giờ cùng ngày, chị Th thực hiện lệnh chuyển khoản số tiền 10.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười triệu đồng) từ tài khoản của chị Th đến số tài khoản do T cung cấp qua ứng dụng Internet Banking. Sau khi nhận được tiền vào tài khoản, anh D đưa T đến cây ATM gần đó rút số tiền 10.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười triệu đồng) và đưa hết cho T, nhưng T chưa đưa cho anh D 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) phí chuyển tiền. Sau khi lấy được tiền, T đi xe buýt về Gia Lâm và trên đường đi, T tắt điện thoại, tháo sim vứt ở dọc đường. Số tiền chiếm đoạt được, T đã chi tiêu và chuyển khoản trả nợ cho chị Hồ Thị KA (Sinh năm: 1985; HKTT: Tân Long B, Tân Thới, Phong Điền, thành phố Cần Thơ), là bạn ngoài xã hội, số tiền 9.170.000 đồng (Bằng chữ: Chín triệu, một trăm bẩy mươi nghìn đồng).

Đến sáng ngày 16/5/2020, T đem chiếc điện thoại chiếm đoạt của anh Đ bán cho người nam giới tên Tuấn (không xác định được lai lịch) tại khu vực Đa Tốn, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, với giá 1.500.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu, năm trăm nghìn đồng) và tiếp tục chuyển khoản trả nợ cho chị Hồ Thị KA số tiền 1.390.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu, ba trăm chín mươi nghìn đồng). Sau đó, T đã sử dụng Zalo mang tên Lò Duy Nhân nhắn tin đến Zalo của chị Th để hỏi tìm anh Đ. Chị Th nói chồng đi công tác nên T nghĩ chị Th chưa biết chồng bị mất điện thoại nên tiếp tục nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Th. Khoảng 13 giờ ngày 16/5/2020, T mua 01 sim điện thoại Viettel lắp vào điện thoại Iphone 6 màu bạc của T và lập tài khoản Zalo mới tên Duy Đ và lấy ảnh của vợ chồng anh Đ làm ảnh đại diện Zalo với mục đích giả vờ là anh Đ để nhắn tin cho chị Th nói chuyển cho T 22.000.000 đồng (Bằng chữ: Hai mươi hai triệu đồng) để mua bán hàng của Công ty. Chị Th lúc này biết là bị lừa đảo nên đã hẹn gặp T tại khu vực phố Kiều Mai, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội để giao tiền, sau đó đến trình báo sự việc tại Công an phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm. Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 16/5/2020, khi T đến địa điểm đã hẹn chị Th để nhận tiền, thì bị Công an phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm phối hợp cùng với Công an phường Phúc Diễn kiểm tra và đưa T về trụ sở Công an để làm rõ.

Vật chứng tạm giữ của Nguyễn Văn T, gồm có: 01 điện thoại di động Iphone 6, màu bạc, gắn sim số 0976.930.913.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự, quận Nam Từ Liêm số: 330/KLĐGTS ngày 29/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, quận Nam Từ Liêm, kết luận:

“- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, 128GB, màu vàng, đã qua sử dụng, mua năm 2016. Trị giá tài sản là: 3.000.000 đồng (Bằng chữ: Ba triệu đồng);

- 01 chiếc ốp điện thoại silicon, màu trắng: Không đủ cơ sở định giá tài sản.

- 01 chiếc sim điện thoại thuê bao số: 0986716215. Trị giá tài sản là: 25.000 đồng (Bằng chữ: Hai mươi lăm nghìn đồng./.)” Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Đi với anh Nguyễn Trọng D, do khi cho T mượn tài khoản và rút tiền chuyển khoản đưa cho T, nhưng anh D không biết là tiền do T phạm tội mà có nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đi với Hồ Thị KA, quá trình điều tra do chị KA vắng mặt tại địa phương, cơ quan điều tra không ghi được lời khai nên không có căn cứ để làm rõ và thu giữ số tiền do T chuyển vào tài khoản của KA.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình T đã bồi thường cho chị Phạm Thị Th số tiền 10.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười triệu đồng), bồi thường cho anh Nguyễn Quý Đ trị giá chiếc điện thoại T chiếm đoạt của anh Đ. Anh Đ và chị Th không có yêu cầu bồi thường về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho T.

Bản Cáo trạng số: 224/CT-VKSNTL ngày 31/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Điều luật quy định như sau:

Điều 174. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng....., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:” Tại phiên tòa: Bị cáo T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo T, kết luận giữ quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo T về tội:“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như sau: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo, bị hại đã nhận bồi thường thiệt hại về tài sản và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 03 lần, trong đó có 01 lần bị cáo phạm tội chưa đạt, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 và Điều 57 của Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 174; Điều 38; Điều 57; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T với mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên, đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận bồi thường tài sản, không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước phương tiện phạm tội của bị cáo là: 01 điện thoại di động, Iphone 6, màu bạc, bên trong có lắp sim số: 0976.930.913.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy, có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 15/5/2020, tại khu vực quán trà đá vỉa hè trên đường Mễ Trì, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn T có hành vi gian dối chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6, trị giá 3.000.000 đồng (Bằng chữ: Ba triệu đồng) và 01 sim điện thoại trị giá 25.000 đồng (Bằng chữ: Hai mươi lăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Quý Đ.

Khong 16 giờ ngày 15/5/2020, tại địa chỉ: N02, liền kề 33, khu đất dịch vụ 16, 17, 18 AB, phường Dương Nội, quận Hà Đ, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn T có hành vi gian dối chiếm đoạt 10.000.000 đồng (Bằng chữ: Mười triệu đồng) của chị Phạm Thị Th.

Ngoài ra, khoảng 15 giờ 10 phút ngày 16/5/2020, tại khu vực phố Kiều Mai, phường Phúc Diễn, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Nguyễn Văn T có hành vi gian dối mục đích chiếm đoạt 22.000.000 đồng (Bằng chữ: Hai mươi hai triệu đồng) của chị Phạm Thị Th, nhưng chưa chiếm đoạt được do bị chị Th phát hiện và trình báo cơ quan Công an.

Tng trị giá tài sản T đã chiếm đoạt của bị hại là: 13.025.000 đồng (Bằng chữ: Mười ba triệu, không trăm hai mươi lăm nghìn đồng);

Bị cáo khai nhận tội. Hậu quả đã khắc phục. Anh Đ và chị Th có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt như đã viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp với pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức được hậu quả xảy ra nhưng vẫn cố ý phạm tội. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo, bị hại đã nhận bồi thường thiệt hại về tài sản và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 03 lần, trong đó có 01 lần bị cáo phạm tội chưa đạt, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, Hội đồng xét xử thấy, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo T từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù, là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nên giảm nhẹ một phần hình phạt, thấp hơn mức hình phạt đề nghị của Kiểm sát viên, cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận bồi thường tài sản, không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự, nên, Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Tuyên tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động, Iphone 6, màu bạc, bên trong có lắp sim số 0976.930.913, là phương tiện phạm tội của bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo, bị hại, không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đều hợp pháp.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội:“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 174; Điều 38; Điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm g Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/5/2020.

Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Về xử lý vật chứng: Tch thu nộp ngân sách Nhà Nước: 01 điện thoại di động, Iphone 6, màu bạc, imel: 356988069772263, bên trong có lắp sim số 0976.930.913 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng số 224, lập ngày 07/9/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội);

n cứ vào Khoản 2 Điều 136; Khoản 1 Điều 331; Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:219/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về