Bản án 219/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 219/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 650/2019/TLST-HNGĐ ngày 09/12/2019 về việc: Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXX-ST ngày 14 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên Đơn : Anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1979, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở hiện nay: Xóm 2, thôn CD, xã HB, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Chị Vũ Thị Khánh V, sinh năm 1980; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đội 1, thôn VL, xã VL, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – anh Nguyễn Hữu H:

- Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng: Anh và chị V kết hôn với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HB ngày 25/12/2009. Sau khi cưới anh chị về chung sống gia đình anh tại thôn CD, xã HB, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn ngày khi sau khi cưới. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau trong quan điểm sống, cách sống, lối sống, đối nhân xử thế. Vì vậy vợ chồng nhiều lần xảy ra đánh cãi chửi nhau. Gia đình và chính quyền địa phương có biết việc anh chị đánh cãi chửi nhau. Gia đình hai bên có tham gia hòa giải nhưng không được. Chính quyền địa phương có vào nhà đã tham gia hòa giải 01 lần cách đây khoảng 01 tháng nhưng lập biên bản gì. Anh thừa nhận một trong những nguyên nhân dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn là do anh nghiện ma túy và anh đã từng đi cai nghiện từ năm 2013 đến năm 2015. Trong 02 năm anh cai nghiện chị V vẫn quan tâm, chăm sóc anh, thường xuyên lên chăm nom anh với mong muốn anh cai nghiện thành công và chữa trị bệnh viêm gan C. Sau khi anh cai nghiện xong, khoảng 2 đến 3 tháng sau vợ chồng lại xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị V thái độ không phải đối với mẹ anh, ngoài ra không còn nguyên nhân gì khác.

Năm 2014 thì anh chị ly thân. Chị V về nhà ngoại ở thôn VL, còn anh vẫn ở cùng bố mẹ đẻ anh. Nguyên nhân sống ly thân là do anh đánh đuổi chị V. Anh không đến xin lỗi hay động viên chị quay về chung sống. Từ đó đến nay anh chị chỉ liên lạc nhau vì con chứ không phải vì tình cảm.

Đến nay anh xác định vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, ly thân từ năm 2014, vì vậy anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh ly hôn chị V.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Hữu Khánh M, sinh 02/01/2013; hiện nay cháu Minh đang ở với chị V, sức khỏe tốt, phát triển bình thường. Anh cũng muốn được nuôi con nhưng do chị V có nguyện vọng nuôi con và cháu cũng muốn ở với mẹ nên anh nhất trí để chị V trực tiếp nuôi con. Anh sẽ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng. Hiện nay anh làm điều hành tour du lịch, thu nhập khoảng 8.000.000 đồng/tháng. Anh không nhất trí với yêu cầu của chị V về việc cấp dưỡng nuôi con 6.000.000 đồng/tháng (tăng thêm 10%/năm) vì thu nhập của anh không đủ để cấp dưỡng nuôi con như vậy. Về việc lo chỗ ăn, ở cho con thì hiện nay anh chưa có nhà đất riêng. Nếu sau nay anh có nhà đất riêng thì anh sẽ lo cho cháu Minh về nhà đất.

- Về tài sản chung, công sức, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

 Tại phiên tòa anh Nguyễn Hữu H vẫn giữ toàn bộ yêu cầu theo đơn khởi kiện ban đầu.

Quan điểm của bị đơn – chị Vũ Thị Khánh V:

- Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng: Chị nhất trí như lời khai của anh H về thời gian, thủ tục kết hôn cũng như quá trình vợ chồng chung sống.

Quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn không phải do anh H khai. Khi mới kết hôn vợ chồng không xảy ra vấn đề gì. Đến khoảng 03 tháng sau khi cưới chị phát hiện anh H nghiện ma túy. Chị đã rất cố gắng để tìm cách tháo gỡ giúp anh H cai nghiện và điều trị bệnh viêm gan C. Tháng 5 năm 2011, anh H đi cai nghiện bắt buộc tại trung tâm cai nghiện số 3, Sóc Sơn. Anh H phải cai nghiện trong thời gian 02 năm. Trong thời gian 02 năm đó tình cảm vợ chồng vẫn bình thường, chị vẫn tìm đủ mọi cách quan tâm, chăm sóc và tìm đủ mọi cách để anh H cai nghiện và chữa được bệnh. Đến tháng 5 năm 2013 anh H được về nhà. Sau khi anh H về nhà khoảng 02 tháng thì vợ chồng lại xảy ra căng thẳng. Nguyên nhân là do anh H tiếp tục sử dụng ma túy, chơi bời bạn bè, bỏ bê vợ con, ngoại tình. Chị không có chứng cứ về việc anh H sử dụng ma túy nhưng căn cứ vào hiện tượng, trạng thái của anh H và anh H cũng đã từng thừa nhận với chị là vẫn sử dụng ma túy. Về việc anh H ngoại tình, chị có tài liệu, chứng cứ là hình ảnh do chính anh H đăng lên mạng xã hội Facebook.

Khoảng tháng 12 năm 2014 anh chị ly thân. Nguyên nhân chính là do anh H chơi bời, ngoại tình, thiếu trách nhiệm với gia đình, ngoài ra còn do anh H và mẹ anh H gây áp lực và đuổi mẹ con chị ra khỏi nhà. Vì vậy mà chị và con đã về nhà ngoại sinh sống. Từ đó đến nay anh H hay gia đình anh H không khi nào xuống xin lỗi hay đón chị về. Cũng có lúc hai vợ chồng liên lạc với nhau trao đổi về con chứ chưa khi nào anh có lời nói hay hành động để đón mẹ con chị về. Hai gia đình có gặp nhau trao đổi nhưng không thành vì mẹ anh H có những lời nói thể hiện không muốn vợ chồng anh chị về chung sống. Chưa khi nào anh chị nhờ chính quyền địa phương hòa giải hay chính quyền địa phương hòa giải. Quan điểm của chị là không đồng ý ly hôn. Lý do chị không đồng ý ly hôn vì quyền lợi của con chị. Chị không còn yêu thương anh H, chị không có biện pháp nào để cải thiện tình cảm vợ chồng và cũng không mong muốn vợ chồng quay về với nhau. Ngoài ra chị không còn lý do gì khác để không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Nguyễn Hữu Khánh M, sinh 02/01/2013, hiện nay cháu Minh đang ở với chị, sức khỏe tốt, phát triển bình thường, đang học lớp 1 trường tiểu học HB. Trường hợp phải ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 6.000.000 đồng/tháng, tăng 10%/năm. Chị yêu cầu anh H phải đảm bảo chỗ ở, nhà cửa cho con (cụ thể là cung cấp nhà đất đảm bảo điều kiện sống cho con). Nếu anh H không đồng ý với quan điểm của chị như vậy thì chị cũng không cần anh H cấp dưỡng nữa. Về chỗ ở, thu nhập chị có đủ điều kiện đảm bảo nuôi con, hiện nay chị đang ở cùng bố mẹ chị tại thôn VL. Nếu ly hôn, bố mẹ chị sẽ tạo điều kiện về chỗ ở cho mẹ con chị. Chị cũng đảm bảo về điều kiện về tư cách, đạo đức để giáo dục con. Hiện nay chị làm về phần mềm tại Công ty cổ phần NTQ Solution, thu nhập trung bình 19.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, công sức, nợ chung: Chị xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, chị V đồng ý ly hôn. Về con chung và tài sản, công sức, nợ chị giữ nguyên như lời khai trong quá trình giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định pháp luật. Các đương sự chấp hành đúng quy định pháp luật Tố tuhng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của anh Nguyễn Hữu H và chị Vũ Thị Khánh V.

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Hữu Khánh M, sinh 02/01/2013 cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con ghi nhận sự tự nguyện của anh H cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung, công sức, nợ chung: Không giải quyết vì các bên không có yêu cầu.

Về án phí: Anh H phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ; căn cứ kết quả thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa; căn cứ việc hỏi tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận công khai tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Hữu H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 25/12/2009 tại Ủy ban nhân dân xã HB, huyện ĐA, thành phố Hà Nội. Như vậy hôn nhân giữa anh chị là hợp pháp. Anh chị đều có hộ khẩu thường trú và đang cư trú tại huyện Đông Anh. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh chị đều xác nhận đã làm mất giấy chứng nhận kết hôn bản chín h nên chỉ còn bản sao để nộp cho Tòa án.

[2] Về tình cảm vợ chồng và nguyên nhân mâu thuẫn:

Anh H xác định quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, cách đối nhân xử thế, ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa chị V với mẹ chồng.

Chị V xác định vợ chồng có mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh H chời bời, nghiện ma túy, bỏ bê vợ con.

Anh chị đều thừa nhận đã ly thân từ năm 2014 đến nay.

Ông Nguyễn Hữu C và bà Phạm Thị L là bố mẹ của anh H xác định mâu thuẫn của anh chị đã kéo dài đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn để sớm ổn định cuộc sống.

Ông Vũ Tiến K và bà Phan Thị T (D) là bố mẹ đẻ chị V xác định anh chị có mâu thuẫn và đã ly thân từ lâu. Vì vậy anh chị ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết theo yêu cầu của anh chị.

Như vậy xác định quá trình chung sống anh chị có mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, về cách đối nhân xử thế, ngoài ra còn có nguyên nhân là do anh H đã từng nghiện ma túy. Anh chị đã ly thân từ tháng 12 năm 2014. Anh H kiên quyết yêu cầu ly hôn, tại phiên tòa chị V đồng ý ly hôn. Việc anh chị thuận tình ly hôn là hoàn toàn tự nguyện vì vậy Tòa án ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của anh chị theo quy định tạ i Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[3] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn:

Anh chị đều xác định có 01 con chung là Nguyễn Hữu Khánh M, sinh 02/01/2013. Hiện nay con chung đang ở với chị V. Anh chị đều thống nhất nếu ly hôn để chị V trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Vì vậy giao con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, anh H tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng; chị V yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con 6.000.000 đồng/tháng, tăng 10%/năm. Chị yêu cầu anh H phải đảm bảo chỗ ở, nhà cửa cho con. Xét thu nhập của các bên, chi phí nuôi dưỡng con chung tại thời điểm này thì mức cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng là phù hợp. Vì vậy, buộc anh H cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000 đồng/tháng. Anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở theo quy định tại khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung, công sức của vợ chồng và nợ chung: Các bên đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo:

Anh H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ:

- Điều 55, 81, 82, 83 và Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014:

- Khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Ghi nhận sự tự nguyện ly hôn của anh Nguyễn Hữu H và chị Vũ Thị Khánh V.

2. Về con chung: Xác định anh Nguyễn Hữu H và chị Vũ Thị Khánh V có 01 con chung là cháu Nguyễn Hữu Khánh M, sinh 02/01/2013.

Giao con chung cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000 đồng/tháng kể từ tháng 6 năm 2020 đến khi con chung thành niên hoặc đến khi có quyết định khác của Tòa án.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công sức và nợ chung: Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm:

- Án phí ly hôn sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng và án phí cấp dưỡng nuôi con 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng anh H phải chịu để sung ngân sách nhà nước nhưng được đối trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí anh đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0015112 ngày 02/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh. Anh H còn phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.

Án xử công khai sơ thẩm. Anh H và chị V đều có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2020/HNGĐ-ST ngày 25/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:219/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:25/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về