Bản án 219/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 219/2019/HS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 198/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 229/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. Võ Sỹ T, sinh năm 1992 tại tỉnh Bạc Liêu; thường trú: khóm 5, phường 3, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu; chỗ ở: Bùi Minh T, phường 6, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Võ Minh T, sinh năm 1969 và bà Đặng Tố N, sinh năm 1969; tiền án: không, tiền sự: Năm 2012 Công an huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở giáo dục đào tạo giải quyết việc làm số 1 đến năm 2013 chấp hành xong và năm 2016 Công an quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở giáo dục đào giải quyết việc làm số 1 đến tháng 10/2017 chấp hành xong; về nhân thân: Ngày 18/6/2013 Tòa án nhân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù tại bản án số 180/2013/HSST về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt năm 2014; bị bắt tạm giam ngày 22/3/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Ngọc H, sinh năm 1993 tại thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Phạm Thế Hiển, phường 5, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Phạm Công P, sinh năm 1961 và bà Ngô Kim T, sinh năm 1960; có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 22/3/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1981; địa chỉ: ấp 2, xã P, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 21/3/2019 Võ Sỹ T điều khiển xe mô tô biển số 60P6-6560 chở Phạm Ngọc H đi đến đường Cao Lỗ, phường 4, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh gặp người nữ tên Y mua 500.000 đồng ma túy đá; H lấy ma túy cất vào túi xách và T điều khiển xe đi về hướng thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương để tìm phòng trọ thuê; khi đến gần nhà nghỉ Mỹ Anh thuộc tổ 8, khu phố Bình Đường 2, phường An Bình, thị xã Dĩ An gặp lực lượng Công an phường An Bình đi tuần tra phát hiện T và H có biểu hiện sử dụng ma túy, nên mời về trụ sở phường làm việc. Tại đây, T và H giao nộp 02 gói ma túy vừa mua, Công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 02 gói ma túy được bảo quản bằng túi nylon hàn kín; 01 xe mô tô biển số 60P6-6560, số khung 334812, số máy 34812.

Căn cứ kết luận giám định số 260/MT-PC60 ngày 26/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng trong túi M1 và M2 là ma túy, loại chất Methamphetamine, khối lượng 0,4388 gam (M1) và 0,1012 gam (M2).

Đối với người phụ nữ tên Y bán ma túy cho T và H do chưa rõ về nhân thân, lai lịch nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với mô tô biển số 60P6-6560, số khung 334812, số máy 34812 do ông Nguyên Văn Đ Làm chủ sở hữu, ông Đ đã bán chiếc xe trên cho Võ Sỹ T.

Tại cáo trạng số 221/CT–VKS-DA ngày 24 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Võ Sỹ T và Phạm Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Võ Sỹ T mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Phạm Ngọc Hà mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy chất Methamphetamin, khối lượng 0,2884 gam (M1) và 0,048 gam (M2) mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước mô tô biển số 60P6-6560, số khung 334812, số máy 34812.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Võ Sỹ T và Phạm Ngọc H cùng rủ nhau mua ma túy sử dụng, T điều khiển xe chở H đến khu vực đường Cao Lỗ, phường 4, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh gặp người nữ tên Y mua 02 gói ma tuy đá với giá 500.000 đồng; sau khi mua được ma túy, cả hai đi tìm chổ để sử dụng, đến gần nhà nghỉ Mỹ Anh thuộc tổ 8, khu phố Bình Đường 2, phường An Bình, thị xã Dĩ An gặp lực lượng Công an phường An Bình đi tuần tra phát hiện T và H có giấu ma túy, Công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Căn cứ kết luận giám định số 260/MT-PC60 ngày 26/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng trong túi M1 và M2 là ma túy, loại chất Methamphetamin, khối lượng 0,4388 gam (M1) và 0,1012 gam (M2).

Hành vi của bị cáo Võ Sỹ T và Phạm Ngọc H cất giấu 02 gói ma túy M1 và M2 loại chất Methamphetamin, khối lượng 0,4388 gam (M1) và 0,1012 gam (M2) để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 221/CT–VKS-DA ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, là công nhân lao động chưa có tiền án tiền sự.

[7] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa chất Methamphetamin, khối lượng 0,2884 gam (M1) và 0,048 gam (M2) mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu thông, cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét mô tô biển số 60P6-6560, số khung 334812, số máy 34812 do ông Nguyên Văn Đ làm chủ sở hữu, ông Đ đã bán chiếc xe trên cho Võ Sỹ T, T dùng làm phương tiện để đi mua ma túy, nên có căn cứ tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Sỹ T và Phạm Ngọc H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Sỹ T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2019.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc H 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/3/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa chất Methamphetamine, khối lượng 0,2884 gam (M1) và 0,048 gam (M2) mẫu vật hoàn lại sau giám định.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước mô tô biển số 60P6-6560, số khung 34812, số máy 334812.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/6/2019, bút lục 117).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Võ Sỹ T và Phạm Ngọc H mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo, có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 219/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:219/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về