TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 218/2017/HSST NGÀY 04/07/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 4 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 249/2017/HSST ngày 21/6/2017, theo quyết đinh đưa vụ án ra xét xử số 222/QĐXX-ST ngày 22/6/2017, đối với bị cáo:
Trần Văn M, sinh năm 1995; Hộ khẩu thường trú: Thôn KĐ 3, xã QC, thị xã SS, Tỉnh TH; Chỗ ở: Không cố định; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Trần Văn L con bà Lê Thị Th; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo đầu thú ngày 14/4/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố H; Có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại: Anh Vũ Tiến L – sinh năm 1984
Trú tại: Số 14 ngõ 35 phố ĐC, phường TL, quận HM, thành phố HN; (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 5/2/2015, Nguyễn Xuân H đi xe khách Thanh Hóa ra Hà Nội tìm việc làm. Khi đến bến xe phía Nam, quận HM, thành phố HN thì gặp Trần Văn M. Tại bến xe M rủ H về nhà bạn H là Phạm Thị D (SN 1997; Trú tại: Tổ 68 phường TM, quận HM, thành phố HN) chơi. Tại nhà D, M và H gặp Vũ Văn T. Sau khi ăn cơm tại nhà D xong, D đi ngủ còn M, H, T rủ nhau đi trộm cắp tài sản lấy tiền ăn tiêu. M chuẩn bị đèn pin và băng dính 2 mặt. Khoảng 1h 30 phút ngày 6/2/2015, H, M, T đi bộ ra khu vực đường Giải Phóng thuê taxi của người đàn ông không quen biết đi đến cầu ĐC thì xuống xe và đi bộ đến dãy trọ nhà anh Vũ Tiến L ( Địa chỉ: Số 14 ngõ 35 phố ĐC, phường TL, quận HM, thành phố HN). M bảo H và T cảnh giới, còn M đi lấy 2 đoạn gậy tre, 01 đoạn dài 1,6m và 01 đoạn dài 2m dùng băng dính nối hai đoạn lại với nhau và dùng băng dính 2 mặt vào đầu gậy, dùng đèn pin soi vào nhà anh L. M dùng gậy có đầu băng dính, dính được 01 điện thoại Sony Z1 màu trắng, số Imeil 358094053157567 đưa cho T, T cầm bỏ điện thoại vào áo khoác trước trực trái thì bị anh Vũ Tiến L phát hiện hô hoán, M chạy theo hướng đường Giải Phóng, còn H và T chạy theo hướng cầu ĐC được khoảng 70m thì bị anh L và người dân bắt giữ đưa T và H cùng tang vật về trụ sở công an phường TL để lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Ngày 6/2/2015 anh Vũ Tiến L có đơn trình báo đến công an phường TL về sự việc anh bị trộm cắp tài sản là chiếc điện thoại Sony Z1.
Theo kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự 01 điện thoại hiệu Sony Z1 màu trắng Imeil 358094053157567 có giá trị 6.000.000 đồng. Trần Văn M sau khi phạm tội xong thì bỏ trốn nên ngày 6/5/2015 cơ quan cảnh sát điều tra công an quận HM đã ra quyết định tách vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và ra quyết định truy nã đối với Trần Văn M.
Ngày 15/7/2015, Toà án nhân dân quận Hoàng Mai đã xét xử đối với Nguyễn Xuân H, Vũ Văn T và đã xử lý vật chứng.
Ngày 14/4/2017, Trần Văn M đến Công an phường LT, quận ĐĐ, HN đầu thú. Tại cơ quan công an, Trần Văn M khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên. Lời khai của M phù hợp với lời khai của người bị hại là anh Vũ Tiến L, người làm chứng là anh Hà Ngọc D, cũng như lời khai của Nguyễn Xuân H và Vũ Văn T.
Tại bản cáo trạng số 225/CT-VKS ngày 19/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận HM đã truy tố Trần Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận HM giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự:
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn M từ 10 đến 12 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sụng bằng tiền cho bị cáo.
Về dân sự: Người bị hại là anh Vũ Tiến L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường dân sự nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.
Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn M khai nhận như đã khai tại cơ quan điều tra, bị cáo thừa nhận ngày 6/2/2015, bị cáo đã cùng với Nguyễn Xuân H, Vũ Văn T có hành vi trộm cắp tài sản là chiếc điện thoại di động Sony Z1 của anh Vũ Tiến L. Bị cáo thừa nhận Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận HM, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân quận HM, Kiểm sát viên: trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Xét hành vi của bị cáo: Khoảng 06 giờ 15 phút, ngày 06/02/2015, tại số nhà 14 ngõ 35 phố ĐC, phường TL, quận HM, thành phố HN, Trần Văn M đã cùng với Nguyễn Xuân H, Vũ Văn T có hành vi lén lút dùng gậy tre có dán băng dính hay mặt để chiếm đoạt chiếc điện thoại di động Sony Z1 màu trắng có giá trị 6.000.000 đồng của anh Vũ Tiến L.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho nhân dân.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 138 Bộ luật hình sự.
Về vai trò của bị cáo trong vụ án: Trong vụ án này, bị cáo là người chuẩn bị công cụ phạm tội, cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội tích cực nhất. Vì vây vai trò của bị cáo cao hơn các đồng phạm khác là Nguyễn Xuân H và Vũ Văn T.
Sau khi phạm tội, Nguyễn Xuân H và Vũ Văn T bị bắt, còn bị cáo bỏ chạy thoát và đã bị Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã.
Xét nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự nhưng sau khi phạm tội bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng. Quá trình thực hiện tội phạm, bị cáo cũng thực hiện hành vi tích cực nhất. Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Đối với các đồng phạm là Nguyễn Xuân H, Vũ Văn T đã bị Tòa án nhân dân quận HM xét xử về tội trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số 155/HSST ngày 16/7/2015.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Khi biết bị truy nã, bị cáo đã đến cơ quan Công an để đầu thú. Hội đồng xét xử căn cứ điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập kinh tế ổn định nên miễn phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.
Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”
Áp dụng: khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Văn M 12( Mười hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2017.
Hình phạt bổ sung: Miễn phạt tiền đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự:
Không xem xét.Về án phí: căn cứ điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ; khoản 1, mục I phần A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14: Bị cáo Trần Văn M phải chịu chịu 200.000đ(Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ Điều 231; Điều 234 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 218/2017/HSST ngày 04/07/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 218/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/07/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về