Bản án 217/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 217/2019/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 159/2019/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2019/QĐXX-ST ngày 01 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hứa Thị H, sinh năm 1993

Địa chỉ: thôn Quán Hồ, xã H, huyện T, tỉnh L.

2. Bị đơn: Anh Lê Ngọc B, sinh năm 1995

Địa chỉ: Thôn 1, xã Hoằng N, huyện H, tỉnh Thanh Hóa.

Ti phiên tòa nguyên đơn chị Hứa Thị H có mặt, vắng mặt bị đơn anh Lê Ngọc B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 20/5/2019, bản tự khai ngày 15/7/2019 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Hứa Thị H thể hiện:

i (H) và anh Lê Ngọc B tự nguyện kết hôn với nhau, được UBND xã Hoằng N, huyện H, tỉnh Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06 tháng 10 năm 2016. Vợ chồng tôi sống với nhau gần 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh B thường xuyên đánh đập tôi, chơi bời không chịu tu trí làm ăn nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 6/2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay tôi nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh B. Do tình cảm của tôi đối với anh B không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ được nên tôi đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

Về con: Tôi (H) và anh Lê Ngọc B có 01 (Một) con chung Lê Thị Ánh Phương, sinh ngày 21/4/2017. Hiện nay cháu đang ở với tôi. Nay ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi cháu và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản và công nợ: Tôi không yêu cầu giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Lê Ngọc B đến để giải quyết vụ án, nhưng anh vẫn không có mặt.

Theo lời trình bày của bà ông Lê Ngọc B và bà Chu Thị V (là bố mẹ đẻ của anh B) thể hiện: Con trai tôi đi làm ăn, thường xuyên về thăm gia đình và gọi điện về nhà , gần đây mới về nhà xong rồi lại đi, việc chị H xin ly hôn, B có biết và nói với tôi. Quan điểm của anh B là tình cảm vợ chồng không hàn gắn được nên cũng đồng ý ly hôn, nhưng do công việc bận nên anh không thể ở nhà để giải quyết được.

Về con chung: Chị Hứa Thị H và anh Lê Ngọc B có 01 (Một) con chung, Lê Thị Ánh Phương, sinh ngày 21/4/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị H, chị H có nguyện vọng nuôi con thì anh B và gia đình cũng đồng ý và không có yêu cầu gì về cấp dưỡng.

Về tài sản: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Qúa trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ về nguyên nhân xảy ra tranh chấp trong quan hệ vợ chồng anh B và chị H tại UBND xã Hoằng N theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo mở phiên họp, Quyết định đưa vụ án xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho anh B nhưng anh không có mặt. Tòa án đã tống đạt được trực tiếp các văn bản tố tụng của Tòa án cho bà Chu Thị V (mẹ đẻ) anh B, bà cam kết nhận văn bản của Tòa án và giao lại ngay các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh B.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về quá trình tố tụng và đề xuất hướng giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đầy đủ, đảm bảo trình tự, thủ tục từ khi thụ lý, mở phiên họp kiểm tra tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và tại phiên tòa. Người tham gia tố tụng đã được thực hiện đầy đủ, đảm bảo các quyền, nghĩa vụ tố tụng theo quy định BLTTDS.

Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Chị Hứa Thị H và anh Lê Ngọc B kết hôn năm 2016. Vợ chồng sống với nhau được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh B không chịu tu chí làm ăn dẫn đến chị H chán chường đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 6/2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị H có nguyện vọng xin ly hôn anh B. Đại diện VKS nhận thấy tình cảm vợ chồng trầm trọng đời sống chung không thể kéo dài nên căn cứ Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị Hứa Thị H được ly hôn với anh Lê Ngọc B.

Về con chung: Vợ chồng có 01(một) con chung Lê Thị Ánh Phương, sinh ngày 21/4/2017. Nay ly hôn chị H có nguyện vọng được nuôi cháu. VKS nhận thấy do cháu Phương đang còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi cần có sự chăm sóc của người mẹ hơn bố, trong khi anh B đi làm ăn thường xuyên phải xa nhà. Nên căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị HĐXX giao cháu Lê Thị Ánh Phương cho mẹ cháu là chị Hứa Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Hứa Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ti phiên tòa nguyên đơn chị Hứa Thị H không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ về yêu cầu khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Hứa Thị H làm đơn đề nghị ly hôn đến Tòa án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh B, anh biết việc chị H xin ly hôn và anh đưa ý kiến là đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của chị H. Tại phiên tòa ngày 13/8/2019, do anh B vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử đã quyết định hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nay căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Lê Ngọc B là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Hứa Thị H và anh Lê Ngọc Bkết hôn với nhau vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, do Ủy ban nhân dân xã Hoằng N, huyện H cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau chỉ hòa thuận một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, không thể hòa giải nổi, mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng không thành, vợ chồng sống ly thân không quan tâm gì đến nhau thể hiện tình cảm anh chị thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hứa Thị H là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[3] Về con: Chị Hứa Thị H và anh Lê Ngọc B có 01 con chung là cháu Lê Thị Ánh Phương, sinh ngày 21/4/2017. Hiện nay cháu đang ở với chị H. Nay ly hôn chị H có nguyện vọng tiếp tục nuôi cháu Phương.

Xét yêu cầu nuôi con HĐXX xét thấy: Cháu Lê Thị Ánh Phương, sinh ngày 21/4/2017 cháu đang còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi nên cần sự chăm sóc của người mẹ hơn bố, vả lại từ khi vợ chồng sống ly thân cháu ở với chị H, chị vẫn đảm bảo cho cháu ăn học bình thường. Anh B cũng đồng ý để chị H tiếp tục nuôi cháu vì cháu đang còn nhỏ. Do đó chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Hứa Thị H. Giao cháu Phương cho chị tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh B có quyền qua lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Chị H và anh B không yêu cầu tòa án giải quyết.

[4] Về tài sản: Chị H và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Nguyên đơn là chị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51,56,57,58,81,82,83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Hứa Thị H được ly hôn anh Lê Ngọc B.

Về con: Công nhận cháu Lê Thị Ánh Phương, sinh ngày 21/4/2017 là con chung của chị Hứa Thị H và anh Lê Ngọc B.

Giao cháu Lê Thị Ánh Phương cho chị Hoàng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi. Anh B có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng: Chị Hứa Thị H, anh Lê Ngọc B không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Hứa Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0005671 ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa. Chị H đã thi hành xong.

Nguyên đơn chị Hứa Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị đơn anh Lê Ngọc B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 217/2019/HNGĐ-ST ngày 16/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:217/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về