Bản án 217/2019/HNGĐ-ST ngày 04/11/2019 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T - THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 217/2019/HNGĐ-ST NGÀY 04/11/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 04 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 683/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 225/2019/QĐXX-ST ngày 10 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 193/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/10/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Phạm L; địa chỉ: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H; địa chỉ: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 16/8/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, anh Bùi Phạm L (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng vào ngày 13/4/2009. Quá trình chung sống, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong công việc, sinh hoạt, làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi mắng, xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn, vợ chồng hiện đã sống ly thân từ năm 2016. Nay, anh Bùi Phạm L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có nên anh L yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Anh Bùi Phạm L khai: Anh và chị Nguyễn Thị H không có con chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Bùi Phạm L khai: Anh và chị Nguyễn Thị H không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của pháp luật song đến ngày mở phiên tòa, chị H vẫn không có mặt để trình bày ý kiến về việc anh L xin ly hôn.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là anh Bùi Phạm L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H.Về việc giải quyết vụ án: Tài liệu điều tra thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H được ly hôn. Về con chung và tài sản chung: Nguyên đơn khai không có con chung, không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Bùi Phạm L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là chị Nguyễn Thị H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H được xác lập vào năm 2009 là hợp pháp. Tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt, trong lao động dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi mắng xúc phạm nhau. Do mâu thuẫn nên anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H đã sống ly thân nhau. Anh Bùi Phạm L xin ly hôn chị H, Tòa án đã triệu tập chị H đến Tòa án nhiều lần để trình bày ý kiến về việc anh Bùi Phạm L xin ly hôn nhưng chị H vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn xử cho anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H được ly hôn.

[3] Về con chung: Anh Bùi Phạm L khai: Anh L và chị Nguyễn Thị H không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[4] Về tài sản chung: Anh Bùi Phạm L khai: Anh L và chị Nguyễn Thị H không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12 - 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì anh Bùi Phạm L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H.

2. Về án phí: Anh Bùi Phạm L phải nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0002939 ngày 27 tháng 8 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên, Anh Bùi Phạm L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Phạm L và chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 217/2019/HNGĐ-ST ngày 04/11/2019 về ly hôn

Số hiệu:217/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về