Bản án 215/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 215/2018/HS-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 221/2018/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Vũ Văn C, sinh ngày 06/06/1984 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký thường trú: Thôn N, xãV, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở hiện nay: Không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn T (đã chết) vàbàPhạm Thị K; vợ con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không. Danh chỉ bản số 443 lập ngày 16/10/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/10/2018 cho đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1992. Địa chỉ: Số 67, đường L, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Ông Phạm Quang C, sinh năm 1965. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ, ngày 14/10/2018 bị cáo Vũ Văn C nhận được điện thoại của một người đàn ông tên Đ rủ đi mua ma túy về sử dụng. Sau đó Đ đi xe mô tô loại xe ga màu trắng không rõbiển kiểm soát đến đón bị cáo, do cả hai đều không có tiền nên Vũ Văn C và Đ đi đến cửa hàng điện thoại Tráng Sỹ, số 67 đường L của anh Nguyễn Văn H, Vũ Văn C tháo sim điện thoại lắp vào máy của Đ rồi bán chiếc điện thoại của mình cho anh H được 100.000đ. Bán điện thoại xong Định chở Vũ Văn C đi mua ma túy với một người đàn ông khoảng 40 tuổi tại quán nước trên vỉa hè đường N với giá 100.000đ. Vũ Văn C cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải rồi Đ tiếp tục chở đến hiệu thuốc số 97, đường L, phường V của ông Phạm Quang C để mua bơm kim tiêm và nước cất, khi đang mua thì lực lượng Công an phường V, thành phố L đã phát hiện, yêu cầu kiểm tra, Đ bỏ chạy, còn Vũ Văn C thả từ lòng bàn tay phải 01 (một) gói giấy nhỏ màu trắng bên trong cóchứa chất bột màu trắng xuống nền gạch nhưng bị phát  hiện thu giữ. Vũ Văn C khai nhận chất bột màu  trắng là chất ma túy Heroine.

Bản kết luận giám định số 350/KL-PC09 ngày 17/10/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng gửi giám định làchất ma túy Heroine, cótổng khối lượng 0,121 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo  trạng số 208/CT-VKS ngày  06/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Văn C khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý đúng như nội dung cáo trạng đã nêu.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Văn H vắng mặt tại phiên tòa, tại đơn xin xét xử vắng mặt vàlời khai có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 14/10/2018 tại cửa hàng sửa chữa điện thoại Tráng Sỹ, anh được mua một chiếc điện thoại nhãn hiệu Nokia cũ đã qua sử dụng với một người thanh niên không quen biết giá 100.000đ, chiếc điện thoại đã nộp cho cơ quan công an để phục vụ điều tra. Anh không cóyêu cầu gì đối với bị cáo vàchiếc điện thoại.

Người chứng kiến ông Phạm Quang C vắng mặt tại phiên tòa, lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện ông được chứng kiến sự việc lực lượng Công  an phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn bắt quả tang vàthu giữ niêm phong vật chứng đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vũ Văn C từ 12 đến 18 tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/10/2018; không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong chất ma túy hoàn lại sau giám định, tịch thu hóa giásung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại Nokia; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không cóýkiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Vũ Văn C tại phiên tòa phùhợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên  bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 14/10/2018, tại khu vực đường L, phường V, thành phố L, Vũ Văn C đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine với khối lượng 0,121 gam để sử dụng. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuýtheo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra lànguy hiểm cho xãhội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Bị cáo nhận thức rõ ma túy làchất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm vàcác tệ nạn xãhội khác nhưng bị cáo vân cố tình thực hiện.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, chưa có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Do đó, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xãhội của hành vi, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân người phạm tội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp. Hội đồng xét xử xem xét, quyết định cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xãhội trong một thời gian ngắn nhất định để bị cáo có thời gian tập trung học tập, cải tạo vàtrở thành công dân cóích cho xãhội, đồng thời cũng đảm bảo tính chất răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền do bị cáo không có việc làm ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng theo biên bản xác minh ngày 17/10/2018 của Cơ quan điều tra công an thành phố Lạng Sơn.

[9] Đối với người đàn ông tên Đ và người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra chưa xác minh làm rõ được nên không đề cập xử lý.

[10] Về xử lývật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật Heroine sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy, tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia do chủ sở hữu hợp pháp không yêu cầu nhận lại.

[11] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[12] Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phíTòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 14/10/2018.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Heroine đựng trong 01 phong bìniêm phong đựng mẫu vật giám định. Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, số Imei 355243/03/130447/XX, Model 1202, máy cũ đã qua sử dụng.

(Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố  Lạng  Sơn,  tỉnh  Lạng  Sơn  theo  biên  bản  giao  nhận  vật  chứng  ngày 05/11/2018).

3. Án phí: Bị cáo Vũ Văn C  phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, sung ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215/2018/HS-ST ngày 28/12/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:215/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về