Bản án 215/2017/HNGĐ-ST ngày 26/07/2017 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 215/2017/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Phú xét xử công khai vụ án thụ lý số: 58/2017/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2017 về “Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 249/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự.

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị Bé T, sinh năm: 1985;

Địa chỉ: tổ 16, ấp S.T, xã K.B, huyện A, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm: 1986;

Địa chỉ: Tổ 13, ấp T.B, thị trấn L.B, huyện A, tỉnh An Giang. ( Bà T có mặt, ông L vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại Tòa án, bà Lê Thị Bé T trình bày: năm 2008 bà và ông L kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K .B. Thời gian chung sống ban đầu hạnh phúc nhưng về sau do ông L có người phụ nữ khác nên phát sinh mâu thuẫn, từ đó cả hai không còn chung sống với nhau. Nay cảm thấy tình cảm không còn, bà xin ly hôn.Con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 08/8/2009 hiện đang sống chung với bà T. Ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.

- Nợ chung: Không có.

- Tài sản chung: Không có.

Bị đơn là ông Nguyễn Văn L không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà Tư.

Tòa án đã tiến hành hòa giải để động viên ông T, bà L chung sống lại nhưng do ông L vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được. Đồng thời Tòa án cũng đã tiến hành mở phiên họp về việc tiếp cận, công khai chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để các đương sự thực hiện quyền của mình nhưng ông L vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện ban đầu, ông L vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Phú thực hành quyền kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng phát biểu:

- Về tố tụng: quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông là có căn cứ.

- Về nội dung: hôn nhân giữa bà T và ông L có đăng ký kết hôn nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Do mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng không thể hàn gắn được nên cần cho cả hai ly hôn.

Con chung: giao cháu Th cho bà T nuôi dưỡng, ông L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: không xem xét do đương sự không yêu cầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng và thẩm quyền giải quyết vụ án: bà Lê Thị Bé T có đơn khởi kiện gửi đến Tòa án nhân dân huyện An Phú yêu cầu giải quyết việc hôn nhân của bà đối với ông Nguyễn Văn L. Căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là vụ án tranh chấp về Ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Phú. Ông L vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt ông.

[2] Về quan hệ hôn nhân: bà T và ông L chung sống với nhau từ năm 2008, hôn nhân được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên hôn nhân giữa ông, bà có giá trị pháp lý theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

Do trong đời sống hôn nhân phát sinh mâu thuẫn mà cụ thể theo bà T trình bày thì ông L hành nghề chạy xe ôm, có quen biết và quan hệ bất chính với người phụ nữ khác mặc dù bà đã khuyên can nhiều lần nhưng ông không sửa đổi, do vậy bà T xin ly hôn. Xét thấy ông L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như Thông báo thụ lý vụ án, hòa giải...nhưng ông không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của bà T và cũng không tham gia hòa giải. Ngoài ra, Tòa án cũng đã tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của ông, bà tại địa phương nơi cả hai người chung sống, kết quả xác minh thể hiện trong đời sống hôn nhân cả hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cự cãi và cả hai đã không còn chung sống khoảng 02 năm nay. Từ đó có căn cứ cho thấy đời sống hôn nhân của ông L và bà T là có mâu thuẫn trầm trọng, không thể tiếp tục nên cần cho cả hai người ly hôn để các bên xây dựng hạnh phúc riêng của mình.

[3] Về nuôi dưỡng con chung: Bà T khai ông bà có 01 con chung tên Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 08/8/2009 hiện đang sống chung với bà T. Ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng.

Cháu Th có nguyện vọng muốn được tiếp tục sống chung với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Cháu cho biết trong thời gian không còn chung sống thì ông L cũng ít khi đến thăm nom hoặc chăm sóc cháu.

Căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án quyết định giao cháu Th cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông L được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Bà T và những người thân trong gia đình không được cản trở quyền thăm con của ông L.

[4] Về tài sản chung: Bà T khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp ông L có yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng thì có quyền khởi kiện trong một vụ án khác.

[5] Về nợ chung: Tại phiên tòa bà T khai không có nên không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 9,  81, 82, 83, 84  và Điều 86 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a, Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

- Bà Lê Thị Bé T và ông Nguyễn Văn L được ly hôn

- Con chung: Giao cháu Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 08/8/2009 hiện đang sống chung với bà T cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng.

Ông L được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Bà T và người thân thích không được cản trở quyền thăm nom con chung của ông L.

Vì sự phát triển của con chung, theo yêu cầu của một bên hoặc của cả hai bên, theo yêu cầu của người thân thích hoặc của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Tòa án có thể thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

- Tài sản chung, nợ chung : không xem xét giải quyết.

- Về án phí sơ thẩm: Bà T phải chịu 300.000 đồng) án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005719 ngày 03 tháng 3 năm 2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Phú   Bà T đã nộp đủ ).

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc vắng mặt khi tuyên án, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 215/2017/HNGĐ-ST ngày 26/07/2017 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:215/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về