Bản án 214/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 214/2019/HS-ST NGÀY 25/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 6 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 218/2019/HSST ngày 22/4/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2746/2019/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Thắng L, sinh năm 1972 tại Thành phố Hà Nội; nơi thường trú: 392 Kim Giang, phường Đ, quận H, Thành phố Hà Nội; chỗ ở: Phòng 518 Chung cư T.A, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Bá Q (đã chết) và bà Hoàng Thị G; có vợ Nguyễn Hồng T và 02 con sinh năm 1996 và năm 2012; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: 1./ Ngày 25/7/1991, tại bản án số 283/HSPT bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản của công dân”, 2./ Ngày 05/9/1991, tại bản án số 137/HSST bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, Thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”, 3./ Ngày 29/11/1995, tại bản án số 283/HSPT bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 20 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, 4./ Ngày 29/7/2013, tại Quyết định số 15742 bị Công an phường Khương Thượng, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Bị bắt tạm giam ngày 21/9/2016. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Nguyễn Hồng Sơn thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Đỗ Thắng L. (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Cao Thị H, sinh năm: 1986; trú tại: 2977 Quốc lộ, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: K5/68 N.T.T, phường B, thành phố B1, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt).

2. Ông Cao Văn P, sinh năm: 1963; trú tại: 2977 Quốc lộ, phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

3. Bà Nguyễn Thị Như L, sinh năm: 1981; trú tại: 132/41/48 Nguyễn Hữu C, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 518 Chung cư T.A, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt).

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự: Luật sư Nguyễn Ngọc Trâm thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Cao Thị H. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 25 phút ngày 21/9/2016, tại khu vực Chung cư Thái An 3, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Cơ quan Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Phòng 4 Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ Công an phát hiện bắt quả tang Đỗ Thắng L có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy (đi cùng với L có Cao Thị H là bạn gái của L), thu giữ trong túi xách màu nâu L đang cầm trên tay có 01 bịch nylon bên trong chứa 35 viên nén màu đỏ khắc chữ WY, là ma túy ở thể rắn, khối lượng 3,4275 gam, loại Methamphetamine và 01 cục tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, khối lượng 0,8784 gam, loại Methamphetamine; 06 gói nylon chứa ma túy ở thể rắn, có khối lượng 494,03 gam, loại Methamphetamine. (Theo bản Kết luận giám định số 1760/KLGĐ-H ngày 09/11/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Tiến hành khám xét nơi ở của L và Cao Thị H tại Phòng 518 Chung cư Thái An 3, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, thu giữ tại phòng ngủ của H và L: 03 gói nylon bên trong chứa ma túy ở thể rắn khối lượng 4,3472 gam, loại Methamphetamine; 01 bình dụng cụ sử dụng ma túy đá; 01 hộp giấy cạc-tông bên trong có 01 bịch nylon chứa các cục tinh thể không màu, có khối lượng 351,74 gam không tìm thấy loại ma túy thường gặp; 02 cân điện tử và một số bọc nylon nhỏ. Thu giữ tại phòng khách 01 túi da màu nâu có gắn chìa khóa Phòng 518 Chung cư Thái An 3 (chìa khóa này H đã dùng để mở cửa vào nhà), bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu có lẫn các cục bột màu đỏ là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9633 gam, loại Methamphetamine. Thu giữ trong kệ trên của tủ bếp có 01 hộp nhựa bên trong chứa 02 gói nylon chứa ma túy ở thể rắn, có khối lượng 92,5398 gam, loại Methamphetamine. Thu giữ trong kệ ti vi có 01 vỏ đèn led bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,3835gam, loại Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy thu giữ tại chỗ ở của H và L là 105,2338 gam Methamphetamine. (Theo bản Kết luận giám định số 1761/KLGĐ-H ngày 9/11/2016 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Thắng L khai nhận: L và H quen nhau từ khoảng tháng 3/2016, cả hai đều sử dụng ma túy đá, khoảng 03 tuần trước ngày bị bắt thì cả hai về sống chung với nhau tại Phòng 518 Chung cư Thái An 3, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Chiều ngày 21/9/2016, L từ thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An bay vào Thành phố Hồ Chí Minh, khi vừa xuống sân bay đi vào nhà vệ sinh thì có một người đàn ông (không rõ lai lịch) đưa cho L số ma túy trên mà không cần trả tiền trước, L chưa biết đem về làm gì, bán cho ai. Sau đó, L bắt taxi từ sân bay Tân Sơn Nhất về đến Chung cư Thái An 3 thì gặp H đang đứng đón xe nên cả hai cùng nhau về tầng hầm Chung cư Thái An 3, khi vừa bước xuống xe thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật như đã nêu trên. Đối với số ma túy thu giữ khi khám xét nơi ở, L khai không biết của ai, từ đâu mà có, L không biết H có mua bán ma túy hay không, cũng không biết H lấy ma túy của ai để sử dụng, còn L thì không có hoạt động mua bán ma túy.

Tại cơ quan điều tra, Cao Thị H khai nhận: H và L quen nhau từ khoảng tháng 3/2016 khi L đến khách sạn Cao Gia Thịnh thuê phòng (khách sạn của Cao Văn P là cha ruột của H), cả hai đã nhiều lần cùng nhau sử dụng ma túy đá. Khoảng 03 tuần trước ngày L bị bắt cả hai về sống chung với nhau tại Phòng 518 Chung cư Thái An 3, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, tiền thuê phòng là 6.000.000 đồng, đặt cọc thêm 6.000.000 đồng, L đưa cho H 6.000.000 đồng để thuê phòng và đứng tên thuê phòng. Ngày 19/9/2016, H và L cãi nhau, H bỏ về khách sạn Cao Gia Thịnh ở, khi H bỏ đi thì L báo cho H đã thay ổ khóa nhà và gửi chìa khóa cho một người bạn ở gần sân bay (không rõ lai lịch). Chiều ngày 20/9/2016, L cho H số điện thoại của một người bạn đang giữ chìa khóa, H nhờ xe ôm đi nhận dùm chìa khóa (L đã xác nhận việc thay ổ khóa khác để vào nhà vì khi H bỏ đi đã cầm chìa khóa nên L không vào nhà được). Ngoài ra, mặc dù chung sống như vợ chồng và có cùng sử dụng ma túy đá với L nhưng đến khoảng tháng 7/2016 H mới biết L có mua bán ma túy, H không tham gia vào việc mua bán ma túy của L. Trong quá trình sống chung, nếu có ai hỏi mua ma túy thì H cho người đó số điện thoại của L để người đó tự liên lạc với L, có giao dịch được hay không thì H không biết. Đối với số ma túy thu giữ trong Phòng 518 Chung cư Thái An 3, H khai đó là của L vì H biết L có mua bán ma túy và nhà đó chỉ có L và H ở, nguồn ma túy H có để sử dụng là do L cho. Sau đó H thay đổi lời khai là không biết L có mua bán ma túy và số ma túy thu giữ tại phòng 518 chung cư Thái An 3 không biết là của ai.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thị Như L khai: Lan quen biết H trước đó nhưng chỉ mới gặp và liên lạc lại với nhau khoảng tháng 3/2016, Lan gặp L được vài lần, biết L và H quen nhau, sống chung với nhau như vợ chồng. Ngày 21/9/2016, H buồn nên rủ Lan lên Phòng 518 Chung cư Thái An 3 chơi, khi đến đây Lan thấy trong bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá có sẵn ma túy nên Lan và H cùng nhau sử dụng. Khi sử dụng xong, Lan ngồi lại nhà chơi thì Công an vào khám xét như đã nêu trên. Lời khai ban đầu lan khai nhận biết L và H có mua bán ma túy nhưng không biết bán cho ai. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra Lan thay đổi lời khai, cho rằng lời khai ban đầu là do tinh thần không tỉnh táo nên khai như vậy, thực sự Lan không biết L và H có mua bán ma túy hay không.

Tại bản Cáo trạng số 91/CT-VKS-P1 ngày 12/3/2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đỗ Thắng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 4 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên bổ sung cáo trạng truy tố bị cáo Đỗ Thắng L theo điểm b khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 vì Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại điểm b khoản 4 Điều 249 có mức hình phạt nhẹ hơn điểm e khoản 4 Điều 194 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Thắng L đã khai: L và H quen nhau từ khoảng tháng 3/2016 và cả hai đều sử dụng ma túy. Khoảng 03 tuần trước ngày bị bắt thì L và H về sống chung với nhau tại phòng 518 Chung cư Thái an 3, phường Đông Hưng Thuận, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 19/9/2016 L và H cãi nhau, H về khách sạn Cao Gia Thịnh ở. Sau đó L cũng đi về Nghệ An và L báo cho H biết đã thay ổ khóa phòng và đưa chìa khóa phòng cho một người bạn giữ. Chiều ngày 21/9/2016 L đi máy bay từ thành phố Vinh tỉnh Nghệ An vào thành phố Hồ Chí Minh, khi xuống sân bay Tân Sơn Nhất, L vào nhà vệ sinh sân bay thì có một người đàn ông nhờ L mang dùm 01 bịch đồ đem về Chung cư Thái An 4 sẽ nhận lại, L đồng ý thì người đàn ông bỏ bịch đồ vào túi xách của L. Sau đó L đi taxi về đến chung cư Thái An 3 thì gặp H đang đứng đón và H lên xe chạy về tầng hầm chung cư Thái An 3, khi vừa bước xuống xe thì bị bắt quả tang cùng 498,3359gam Methamphetamine của người đàn ông gửi.

Tiến hành khám xét phòng 518 chung cư Thái An 3 thu giữ thêm 105,2338gam Methamphetamine. Số ma túy này L không biết của ai, từ đâu mà có, L không biết H có mua bán ma túy hay không, cũng không biết H lấy ma túy ở đâu để sử dụng; L không có mua bán ma túy với ai.

Sau khi kiểm tra toàn bộ lời khai của bị cáo cùng với các tài liệu chứng cứ khác được đưa ra xem xét tại phiên tòa; đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Thắng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đỗ Thắng L từ 20 năm tù; đề nghị trả lại cho Cao Thị H 164.000.000 đồng và 02 chiếc điện thoại di động do không liên quan đến vụ án; số vật chứng còn lại đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật sư Nguyễn Hồng Sơn trình bày bài bào chữa cho bị cáo Đỗ Thắng L thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Tuy nhiên lúc bắt quả tang chỉ thu giữ trong túi xách của bị cáo 498,3359gam Methamphetamine và thu giữ thêm 105,2338gam Methamphetamine trong phòng 518 chung cư Thái An 3 không phải của bị cáo nhưng Viện kiểm sát truy tố bị cáo tàng trữ ma túy với khối lượng 602,6064gam Methamphetamine là không chính xác. Ngoài ra quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp hơn mức mà Viện kiểm sát đã đề nghị.

Luật sư Nguyễn Ngọc Trâm trình bày bài bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bà Cao Thị H thống nhất với Cáo trạng Viện kiểm sát xác định H không liên quan đến hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo L, cáo trạng không truy tố Cao Thị H là phù hợp, có căn cứ vì H không liên quan gì số ma túy của L đem về từ sân bay Tân Sơn Nhất cũng như số ma túy thu giữ trong phòng 518 chung cư Thái An 3. Đồng thời, luật sư cũng thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho Cao Thị H 164.000.000 đồng và 02 chiếc điện thoại di động vì không liên quan gì đến hành vi phạm tội của L, cũng không phải là tài sản do phạm tội mà có.

Tranh luận lại ý kiến của luật sư, đại diện Viện kiểm sát bảo lưu quan điểm truy tố bị cáo L tàng trữ 602,6064gam Methamphetamine là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo Đỗ Thắng L thống nhất với bài bào chữa của luật sư, không tranh luận, chỉ nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Thắng L không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Thắng L đã khai nhận toàn bộ những hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã nêu trên. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, vật chứng thu giữ, kết luận giám định ma túy thì sự thật khách quan vụ án đã được chứng minh nên đã đủ cơ sở xác định: Khi đến sân bay Tân Sơn Nhất, bị cáo vào nhà vệ sinh sân bay thì có một người đàn ông không rõ lai lịch nhờ bị cáo mang dùm 01 bịch đồ đem về Chung cư Thái An 4 sẽ nhận lại, bị cáo đồng ý thì người đàn ông bỏ bịch đồ vào túi xách của bị cáo. Sau đó bị cáo đi taxi về đến chung cư Thái An 3 thì gặp H đang đứng đón và H lên xe chạy về tầng hầm chung cư Thái An 3. Khi vừa xuống xe thì bị cáo bị bắt quả tang cùng 498,3359gam Methamphetamine của người đàn ông gửi. Sau đó công an khám xét phòng 518 chung cư Thái An 3 thu giữ thêm 105,2338gam Methamphetamine.

Hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009. Căn cứ vào khoản 3 Điều 7, điểm b khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có mức hình phạt nhẹ hơn điểm e khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, vì vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 4 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Đối với hành vi của Cao Thị H là người đứng tên thuê phòng 518 chung cư Thái An 3 để cùng ở với bị cáo. Khi công an khám xét phòng 518 thu giữ được 105,2338gam Methamphetamine nên có cơ sở buộc H phải chịu trách nhiệm hình sự chung với bị cáo đối với khối lượng ma túy này và Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu xem xét trách nhiệm hình sự Cao Thị H. Tuy nhiên Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố số ma túy này là của Đỗ Thắng L, không liên quan Cao Thị H. Do giới hạn của việc xét xử nên Hội đồng xét xử không thể xét xử hành vi này của Cao Thị H. Đối với hành vi Tàng trữ ma túy loại Methamphetamine có khối lương 0,9633gam được chứa trong túi da nhỏ màu nâu gắn vào chìa khóa của H không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự Cao Thị H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ.

Đối với việc Nguyễn Thị Như Lan có mặt tại phòng 518 chung cư Thái An 3 khi công an vào khám xét và thu giữ được ma túy là do Lan được H rủ đến chơi và có cùng H sử dụng ma túy nên Lan không biết số ma túy này là của ai và không liên quan gì đến số ma túy này. Lời khai của Lan phù hợp với lời khai của H và bị cáo L nên không có cơ sở để xử lý hình sự đối với Lan.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Thắng L là đặc biệt nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, không những gây mất trật tự trị an, sức khỏe con người, làm lây lan tệ nạn nghiện ngập trong xã hội mà còn gây khó khăn trong việc phòng chống tội phạm về ma túy và các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc thì mới có tác dụng giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung. Đồng thời áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung vào ngân sách nhà nước.

Việc luật sư bào chữa cho cho rằng bị cáo chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy khi bị cáo bị bắt quả tang đang cất giữ trong túi xách, bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số ma túy thu giữ tại phòng 518 chung cư Thái An 3 vì bị cáo số ma túy này không phải là của bị cáo. Ý kiến này của Luật sư là không phù hợp với diễn biến vụ án, vì bị cáo trước khi về Nghệ An thì phòng 518 chỉ có một mình bị cáo sử dụng, bị cáo đã làm lại chìa khóa mới và báo cho H biết người cất giữ để liên hệ lấy mở vào phòng. Đến ngày 21/9/2016 sau khi lấy được chìa khóa thì H có rủ Lan cùng vào phòng 518 ở chờ bị cáo và trong khoảng thời gian này Lan không thấy H cất giấu ma túy vào các nơi khi khám xét công an đã thu giữ. Ngoài ra có một số ma túy khi khám xét được cất giấu trong túi xách của bị cáo để lại tại phòng 518. Do đó có cơ sở xác định số ma túy này là của bị cáo, Viện kiểm sát truy tố bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng khối lượng ma túy là 602,6064gam loại Methamphetamine là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng xét về nhân thân bị cáo từng 03 lần bị kết án và 01 lần bị xử phạt hành chính thể hiện là người khó giáo dục, cải tạo. Lần phạm tội này bị cáo thành khẩn khai báo nên được xem xét giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các gói ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và các vật chứng gồm: 02 túi xách màu nâu, 01 túi màu xanh, 01 vỏ đèn led, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 01 số bịch nylon nhỏ không còn giá trị sử dụng nên áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động Iphone (Imei số: …793), 01 điện thoại di động Nokia 6300 màu vàng (imei: …357/0), 01 điện thoại di động Oppo, 02 cân điện tử là công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- Đối với 02 giấy chứng minh nhân dân, 01 thẻ cử tri, 01 giấy đăng ký xe mô tô, 01 giấy chứng nhận xe máy, 01 thẻ ATM Techcombank mang tên Đỗ Thắng L và 5.000.000 đồng là giấy tờ thuộc về nhân thân và tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án nên áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Đỗ Thắng L, riêng khoản tiền thì tạm giữ lại để bảo đảm thi hành án.

- Đối với vé máy bay Vietjet đi từ thành phố Vinh đến Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Đỗ Thắng L liên quan vụ án nên tịch thu lưu hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone (Imei số: …887), 01 điện thoại di động hiệu Philip, 01 điện thoại Nokia 6300 màu vàng (Imei số:

….682/8), 01 điện thoại Nokia màu hồng và 164.000.000 đồng thu giữ của Cao Thị H không liên quan vụ án nên áp dụng điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho Cao Thị H.

[6] Căn cứ Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Đỗ Thắng L 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/9/2016.

Buộc bị cáo phải nộp 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ điểm b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1760/16 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải và ĐTV Phạm Thành Trung, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 05 gói niêm phong bên ngoài ghi vụ số 1761/16 có chữ ký của GĐV Trần Đình Hải và ĐTV Phạm Thành Trung, bên trong là ma túy còn lại sau giám định; 02 túi da màu nâu (01 túi + 01 bóp); 01 cái túi màu xanh; 01 vỏ đèn LED màu trắng; 01 bộ sử dụng ma túy; một số bịch nylon.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone màu vàng, model A1580, Imei: 354406069321793; 01 điện thoại di động Nokia 6300 màu vàng, Imei: 306357/0; 01 điện thoại di động Oppo màu đen, viền xanh và 02 cân điện tử.

- Trả lại cho bị cáo Đỗ Thắng L 02 giấy chứng minh nhân dân tên Đỗ Thắng L + 01 thẻ cử tri mang tên Đỗ Thắng L; 01 giấy đăng ký xe máy mang tên Đỗ Thắng L + 01 giấy chứng nhận bảo hiểm + 01 thẻ ATM Techcombank mang tên Do Thang Loi; 01 giấy phép lái xe tên Phan Thị Xuân Thảo và số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu) đồng. Riêng số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu) đồng thì tiếp tục tạm giữ lại để bảo đảm thi hành án.

- Tịch thu lưu hồ sơ vụ án vé máy bay Vietjet đi từ thành phố Vinh đến thành phố Hồ Chí Minh mang tên DO THANG LOI.

- Trả lại cho Cao Thị H 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng bạc, Imei: 224887; 01 điện thoại di động Nokia 6300 màu vàng số Imei: 356/261/01/516682/8; 01 điện thoại di động hiệu Philip màu đen; 01 điện thoại di động Nokia màu hồng (model không rõ) và 164.000.000 (một trăm sáu mươi bốn triệu) đồng.

(Vật chứng là điện thoại di động theo biên bản giao nhận tang tài vật số 263/19 ngày 07/5/2019; các vật chứng khác theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 160/18 ngày 12/3/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; các khoản tiền theo giấy nộp tiền vào tài khoản của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh ngày 23/6/2017).

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 214/2019/HS-ST ngày 25/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:214/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về