Bản án 213/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 213/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 228/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 920/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Hữu H; Sinh năm 1989; Nơi cư trú: Số C, Khóm X, phường Y, thành phố C, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Chạy xe hon đa khách; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thành Ph và bà Võ Thị Th; Vợ: Châu Thúy A; Con 02 đứa (01 nam, 01 nữ); lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; Anh chị em ruột 04 người: (03 nam, 01 nữ), bị cáo là con thứ 6 trong gia đình.

- Tiền án: 01 lần: Bản án hình sự sơ thẩm số 86/2010/HSST, ngày 26/5/2010 của Tòa án nhân dân thành Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ xử phạt Nguyễn Hữu H 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, quy định khoản 1 Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/9/2011. Chi cục thi hành án dân sự Quận Ninh Kiều xác nhận chưa thụ lý bản án (H chưa nộp án phí).

- Tiền sự: 01 lần: Năm 2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đang chấp hành).

- Về nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2008/HSST, ngày 24/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt Nguyễn Hữu H 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định khoản 2 Điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/10/2009; nộp xong án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Cà Mau từ ngày 02 tháng 7 năm 2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Thái Phú T, sinh năm 1987. Địa chỉ: Khóm F, phường V, thành phố C, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 30 phút đến 15 giờ ngày 01/7/2020, Nguyễn Hữu H điều khiển xe mô tô (xe mô tô do H thuê của người tên Luân, không biết rõ họ và địa chỉ cụ thể) chở khách đến đường Huỳnh Thúc Kháng hướng về cống Hòa Thành, thuộc phường V, thành phố C. Sau khi khách xuống xe, H điều khiển xe tìm khách để chở, thì phát hiện trước cửa tiệm điện Hồng Nam có đậu một xe mô tô hiệu HONDA AirBlade màu cam đen xám, biển kiểm soát 69B1-372.12 của anh Thái Phú T trú tại khóm F, phường V, thành phố C không có người trông giữ nên nảy sinh chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, H điều khiển xe đi chậm để quan sát thấy chìa khóa xe của anh T còn gắn trong ổ khóa, H đậu xe vào lề đường cách chiếc xe anh T khoảng 100m rồi đi đến lén lút dẫn xe ra và điều khiển xe vừa chiếm đoạt của bị hại về khu nhà trọ thuộc khóm X, phường Y, thành phố C ( không phải nhà trọ nơi H sinh sống) cất giấu, sau đó H đi xe hon đa khách đến chỗ đậu chiếc xe mô tô thuê của Luân và điều khiển xe này về.

Đến khoảng 16 giờ ngày 02/7/2020, H điều khiển xe HONDA AirBlade màu cam đen xám, biển kiểm soát 69B1-372.12 đến nhà của anh Từ Trường G tại khóm I, phường V, thành phố Cà Mau mục đích để bán nhưng anh G không mua. Sau đó H tự ý để lại chiếc xe tại nhà anh G rồi về khu nhà trọ ở khóm X, phường Y, thành phố C, nơi H sinh sống thì bị Công an thành phố Cà Mau mời làm việc. Qua làm việc H thừa nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh T.

Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 62/KL-HĐGĐ ngày 20/7/2020 của UBND thành phố Cà Mau kết luận:

+ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe ALRBLADE màu cam đen xám, biển số 69B1-372.12, đã qua sử dụng. 32.000.000 đồng x 95% = 30.400.000đồng;

Tổng cộng: 30.400.000đ (Ba mươi triệu bốn trăm ngàn đồng).

Qua điều tra Nguyễn Hữu H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội phạm trộm cắp xe mô tô của anh T, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi.

Vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe ALRBLADE màu cam đen xám, biển số 69B1-372.12, đã qua sử dụng. Hiện đã trả bị hại anh Thái Phú T.

Tại Cáo trạng số 213/CT-VKS ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội trộm cắp tài sản. Đồng thời, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự, anh Thái Phú T không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét; Vật chứng vụ án: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe ALRBLADE màu cam đen xám, biển số 69B1-372.12, đã qua sử dụng. Hiện đã trả bị hại anh Thái Phú T nên không đặt ra xem xét.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu H thừa nhận hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như Cáo trạng đã nêu, Cáo trạng truy tố đối với bị cáo là đúng, không oan sai và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Đối với bị hại Thái Phú T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không rõ lý do. Xét thấy việc giải quyết vắng mặt của anh T không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Thái Phú T theo luật định.

[3] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu H khai nhận: Khoảng 14 giờ 30 phút đến 15 giờ ngày 01 tháng 7 năm 2020, tại khóm F, phường V, thành phố C, Nguyễn Hữu H lợi dụng sự lơ là, mất cảnh giác của anh Thái Phú T trong việc quản lý, trông coi tài sản nên H đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu HONDA AirBlade màu cam đen xám, biển kiểm soát 69B1-372.12 với tổng giá trị 30.400.000đồng, nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo H tại phiên tòa là có cơ sở chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó Cáo trạng số: 213/CT-VKS ngày 19/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở T tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương. Bị cáo có 01 tiền án, vào năm 2010, bị Tòa án nhân dân thành Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/9/2011, Chi cục thi hành án dân sự Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ xác nhận chưa thụ lý bản án ( H chưa nộp án phí) và 01 tiền sự vào năm 2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (đang chấp hành). Ngoài ra năm 2008, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2008/HSST, ngày 24/3/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xử phạt Nguyễn T H 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/10/2009; nộp xong án phí hình sự sơ thẩm. Sau khi trở về hòa nhập cộng đồng bị cáo không sửa chữa lỗi lầm, trở thành người có ích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, cho thấy bị cáo xem thường pháp luật. Do đó, cần xử lý nghiêm và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như sau: Đối với bản án 86/2010/HSST, ngày 26/5/2010 của Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ, bị cáo đã chấp hành xong phần hình phạt chính (hình phạt tù) ngày 26/9/2011, còn phần quyết định về án phí bị cáo chưa chấp hành xong. Tại Giấy xác nhận kết quả thi hành án số 20/GXN-CCTHADS ngày 28/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Quận Ninh Kiều, Thành phố Cần Thơ xác nhận chưa thụ lý việc thi hành án đối với Bản án nêu trên (H chưa nộp án phí). Như vậy, trường hợp này bị cáo không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự nên lần phạm tội này bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.

[6] Vật chứng của vụ án: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe ALRBLADE màu cam đen xám, biển số 69B1-372.12, đã qua sử dụng. Hiện đã trả bị hại anh Thái Phú T nên không đặt ra xem xét.

[7] Trách nhiệm dân sự: Anh Thái Phú T không có yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Đối với người tên Luân (cho H thuê xe để chạy hon đa khách) qua lời khai H không biết địa chỉ, nhân thân của người này nên chưa làm việc được. Giao Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý khi có căn cứ.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm (chưa nộp).

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 213/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:213/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về