Bản án 212/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 212/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 200/2019/TLST- HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 186/2019/QĐXXST- HS ngày 25 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo: Liễu Trung V, sinh ngày 19 tháng 7 năm 2001 tại Lạng Sơn.

Nơi cư trú: Thôn H, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Liễu Văn B và bà Lương Thị X; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giam ngày 18/9/2019, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Bị hại: Chị Hà Mỹ L, sinh năm 1993;

Nơi cư trú: Số 31, đường B, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn (vng mặt, có đơn xin xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Trương Bích V, sinh năm 1977;

Đa chỉ: Khu H 1 thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12 giờ ngày 14/9/2019, Liễu Trung V một mình đi bộ trên đường B, phường H, thành phố L với mục đích để trộm cắp tài sản. Khi đến ngã tư đường B giao đường T, phường H, thành phố L, Liễu Trung V vào cửa hàng điện thoại P ở số 35, đường T, phường H, thành phố L. Tại đây, Liễu Trung V giả vờ hỏi mua điện thoại di động hiệu SamSung garaxy J4, sạc dự phòng, thẻ nhớ với chủ cửa hàng là chị Hà Mỹ L. Do thấy Liễu Trung V hỏi mua điện thoại và các phụ kiện kèm theo nên chị Hà Mỹ L lấy chiếc điện thoại Sam Sung garaxy J4 đặt trên mặt tủ quầy bán hàng, rồi quay người về phía trong, quay lưng lại phía Liễu Trung V để tìm sạc và thẻ nhớ ở tủ kính cách chỗ Liễu Trung V đứng khoảng 01 mét. Lợi dụng lúc chị Hà Mỹ L sơ hở quay lưng lại và không để ý, Liễu Trung V cầm lấy điện thoại rồi đi ra ngoài đi theo đường T vào đường P1, hướng lên Ngã 3 N. Khi đến khu vực P 3, Liễu Trung V bắt xe taxi rồi đi xuống thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn vào cửa hàng của chị Trương Bích V bán điện thoại cho chị Trương Bích V 1.700.000 đồng, số tiền bán điện thoại Liễu Trung V tiêu sài cá nhân hết.

Ti biên bản định giá tài sản số 194/ĐGTSTT ngày 17/9/2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố L kết luận điện thoại di động SamSung Garaxy J4 do Liễu Trung V chiếm đoạt có trị giá 3.000.000 đồng.

o trạng số 201/KSĐT ngày 08 tháng 11 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Liễu Trung V về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo Liễu Trung V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như nội dung cáo trạng đã truy tố.

Bị hại Hà Mỹ L và ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trương Bích V vắng mặt tại phiên tòa, nhưng trong đơn xin xét xử vắng mặt các chị không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Liễu Trung V phạm tội Trộm cắp tài sản;

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s, i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Liễu Trung V từ 07 đến 08 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản riêng. Về bồi thường thiệt hại: Xác nhận bị hại đã nhận lại tài sản; bị hại và ngưi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu bị cáo bồi thưng gì thêm. Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân, tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo phông vì không còn giá trị sử dụng. Bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có [trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 14/9/2019, tại cửa hàng điện thoại P ở số 35, đường T, phường H, thành phố L.

Liễu Trung V đã có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu SamSung galaxy J4 của chị Hà Mỹ L. Theo kết luận định giá tài sản số 194/ĐGTSTT ngày 17/9/2019, trị giá chiếc điện thoại di động mà Liễu Trung V chiếm đoạt là 3.000.000 đồng. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Liễu Trung V phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 201/KSĐT ngày 08 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ; gây dư luận bất bình trong xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện tội phạm bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật. Nhưng do lười lao động, muốn có tiền tiêu sài bằng cách chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[3] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cần xem xét đến nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo đã bồi thường số tiền 3.000.000 đồng cho bị hại. Vì vậy, bị cáo được hưởng 04 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, yếu tố về nhân thân, chỉ cần xét xử bị cáo mức án đầu khung hình phạt đã truy tố cũng có tác dụng giáo dục bị cáo và răng đe, phòng ngừa chung.

Điều này thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với bị cáo, để bị cáo an tâm cải tạo, sớm trở lại hòa nhập với cộng đồng.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện bị cáo Liễu Trung V không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản riêng, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 175 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm, Hội đồng xét xử xác nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc áo phông đã thu giữ, không còn giá trị sử dụng, áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy. Đối với chứng minh nhân dân mang tên Liễu Trung V, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo, áp dụng khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và các vấn đề khác khi giải quyết vụ án là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[12] Đối với chị Trương Bích v mua điện thoại với Liễu Trung V nhưng không biết điện thoại do Liễu Trung V trộm cắp mà có; chị Trương Bích V đã bán lại cho một người phụ nữ không quen biết. Chị Trương Bích V không biết tên, địa chỉ người phụ nữ mua điện thoại, nên không có cơ sở để xác minh thu hồi điện thoại.

[13] Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Liễu Trung V phạm tội Trộm cắp tài sản.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Liễu Trung V 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 18/9/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Xác nhận bị cáo đã bồi thường trị giá chiếc điện thoại di động hiệu SamSung Galaxy J4 mà bị cáo đã chiếm đoạt cho bị hại Hà Mỹ L số tiền 3.000.000 đồng, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Trương Bích V không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

4. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo phông nam màu vàng, có viền kẻ xanh - đỏ trên vai áo.

- Trả lại cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Liễu Trung V.

(Vt chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn được mô tả chi tiết tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 08 tháng 11 năm 2019).

5. Về án phí: Bị cáo Liễu Trung V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và gười có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 212/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:212/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về