Bản án 212/2018/HS-ST ngày 28/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 212/2018/HS-ST NGÀY 28/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2018, tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 224/2018/TLST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Ly A L; tên gọi khác: Ly A L1; sinh năm 1981, tại Điện Biên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Bản N, xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Không; dân tộc: H’mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ly Pha C (Ly A V; Ly Sếnh V), sinh năm 1956 và con bà: Và Thị C, sinh năm 1956; Chung sống như vợ chồng với: Thào Thị S, sinh năm 1979 và có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2014; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án, Bản án số 103/2017/HSST ngày 29/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện Điện biên, tỉnh Điện Biên xử phạt Ly A L về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Hình phạt 09 tháng tù; nhân thân: Đã bị kết án, đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/6/2018, tạm giam từ ngày 02/7/2018 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

Ngƣời bào chữa cho bị cáo: Bà Lê Thị X, Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Điện Biên, cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên. (Người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ, ngày 27/6/2018, Ly A L đi bộ từ nhà ở Bản N, xã N, huyện Điện Biên đến Bản C, xã N, huyện Điện Biên để tìm mua Methamphetamine đem về sử dụng. Khi đi đến đoạn đường gần Bản C, xã N thì L gặp và mua được của một người phụ nữ dân tộc H’mông khoảng 40 tuổi (không biết tên và địa chỉ) 01 túi nilon màu xanh, miệng túi có nếp gấp cố định bên trong có Methamphetamine với giá 450.000 đồng. Sau đó, L cất gói Methamphetamine vào túi áo ngực phía trong bên trái đang mặc. Sáng ngày 28/6/2018, L đã lấy 03 viên Methamphetamine ra sử dụng bằng hình thức chích. Số còn lại L gói lại như cũ và tiếp tục cất vào túi áo ngực phía trong bên trái đang mặc. Ngày 29/6/2018, L đến khu vực Bản C, xã N, huyện Điện Biên tìmlấy măng và mang theo số Methamphetamine để sử dụng. Trên đường đi, L đã sử dụng hết 03 viên Methamphetamine. Số còn lại L cất ở trong túi áo ngực phía trong bên trái đang mặc. Hồi 10 giờ 05 phút cùng ngày, khi Ly A L đang đi ở trong khu vực Bản C, xã N thì bị tổ công tác đồn Biên phòng cửa khẩu Quốc Tế Tây Trang phối hợp Phòng phòng chống ma túy Bộ Đội biên phòng tỉnh Điện Biên và Công an huyện Điện Biên phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại túi áo ngực phía trong bên trái Ly A L đang mặc 01 túi nilon màu xanh, bên trong chứa 80 viên Methamphetamine có tổng khối lượng 7,51 gam.

Tại phiên tòa bị cáo Ly A L đã khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra....

Kết luận giám định số 644/GĐ-PC54 ngày 09/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Ly A L gửi giám định là ma túy: Loại Methamphetamine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Ly A L là 7,51gam; Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; Không hoàn lại mẫu vật sau khi giám định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về kết luận Giám định.

Tại bản Cáo trạng số 173/CT - VKSĐB ngày 06/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo mức án từ 06 (sáu) năm đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 7,51 gam Methamphetamine, trích mẫu 0,19gam gửi giám định không hoàn lại, là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội khóa 14, miễn toàn bộ tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát, không có ý kiến gì tranh luận.

Người bào chữa cho bị cáo Ly A L (L1) có mặt tại phiên tòa nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo thành khẩn khai báo , ăn năn hối cải đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, số lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ cũng không nhiều nên đề nghị áp dụng cho bị cáo L ở mức án thấp nhất của khung hình phạt; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo vì bị cáo sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.

Đại diện Viện Kiểm sát xét thấy đề nghị của Người bào chữa áp dụng cho bị cáo theo Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là không phù hợp, Đại diện viện kiểm sát không nhất trí. Người bào chữa nhận định khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ không lớn là không phù hợp, vì khối lượng bị cáo tàng trữ là 7,51 gam, Bộ luật hình sự quy định “Heroine, Cocaine, Methamphetamine,....có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội của bị cáo là "rất nghiêm trọng", do vậy L đã bị áp dụng theo Điểm g Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự mà Viện kiểm sát đề nghị là hoàn toàn phù hợp và có căn cứ; Ngoài ra L còn có 01 tiền án, nay lại tiếp tục phạm tội mới do lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát không nhất trí với đề nghị của Người bào chữa về tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và áp dụng cho bị cáo mức thấp nhất của khung hình phạt.

Người bào chữa không có ý kiến gì tranh luật với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Ly A L (L1) không bổ sung gì về lời bào chữa và hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, không có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật và được chấp nhận.

[2]. Hành vi của bị cáo được chứng minh như sau: Khoảng 18giờ, ngày 27/6/2018, Ly A L đi bộ từ nhà đến Bản C, xã N, huyện Điện Biên tìm mua được của01 người phụ nữ dân tộc H’mông khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01 túi nilon màu xanh bên trong có chứa Methamphetamine với giá 450.000 đồng. L mang về đã  sử dụng 03 viên Methamphetamine, số còn đã bị tổ công tác tác đồn Biên phòng cửa khẩu Quốc tế Tây trang phối hợp với Phòng phòng chống ma túy Bộ đội biên phòng tỉnh Điện Biên và Công an huyện Điện Biên phát hiện, bắt quả tang thu giữ 01 túi nilon màu xanh, bên trong có chứa 80 viên Methamphetamine, sau khi cân xác định có khối lượng 7,51 gam gam heroine. Với hành vi cất giấu, tàng trữ trái phép 7,51 gam heroine trên người của bị cáo thì đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo.

[3]. Về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấy rằng: Hành vi đó là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đã tiếp tay cho những người khác chuyên buôn bán các chất ma túy ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng tới trật tự trị an, an toàn trong xã hội trên địa bàn xã N nói riêng cũng như địa bàn huyện Điện Biên nói chung. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Nên bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã N, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, bản thân không đi học, chỉ ở nhà giúp gia đình. Năm 2013 chung sống như vợ chồng với Thào Thị S và sinh được 02 con. Ngày 08/11/2014 bị áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở giáo dục. Đến ngày 8/6/2016 chấp hành xong. Ngày 23/12/2016 bị bắt tạm giam, Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 23/9/2017 chấp hành xong án phạt tù, bị cáo chưa được xóa án tích. Nay bị cáo Ly A L lại tiếp tục phạm tội mới do lỗi cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý và rất nghiêm trọng, bản thân bị cáo có nhân thân xấu. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

 [5]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Nguồn gốc số Methamphetamine thu giữ của bị cáo Ly A L, bị cáo khai mua của một người đàn bà dân tộc H’mông, khoảng 40 tuổi. Do bị cáo không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về vật chứng vụ án: Vật chứng thu giữ của L là 7,51 gam Methamphetamine, trích mẫu gửi đi giám định 0,19gam, sau khi giám định không hoàn lại mẫu vật, là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8]. Án phí: Bị cáo Ly A L là người dân tộc thiểu số, sống ở xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới... và tại phiên tòa bị cáo xin miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm. Nên căn cứ vào Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Ly A L.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm g Khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Ly A L (Ly A L1) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt bị cáo Ly A L (L1) 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 29/6/2018.

3. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố Tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 7,51gam Methamphetamine, trích mẫu 0,19 gam gửi đi giám định không hoàn lại, là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

(Toàn bộ vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo Biên bản bản giao nhận vật chứng ngày 07/9/2018).

4. Án phí: Bị cáo Ly A L là người dân tộc thiểu số, sống ở xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới... và tại phiên tòa bị cáo xin miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm. Nên căn cứ vào Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; Khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ tiền án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Ly A L.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/9/2018)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 212/2018/HS-ST ngày 28/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:212/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về