Bản án 212/2018/HS-ST ngày 14/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 212/2018/HS-ST NGÀY 14/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 208/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1981 tại tỉnh An Giang; thường trú: Khóm Đ Th 6, phường M Ph, thành phố L X, tỉnh An Giang; chỗ ở: Khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Hồng H, sinh năm 1962 và bà Võ Thị Ph, sinh năm 1964; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 06/12/2006, bị Chủ tịch UBND thành phố L X, tỉnh An Giang ra Quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, chấp hành xong vào ngày 25/10/2007; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/4/2018, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Công M, sinh năm 1994; thường trú: Ấp B, xã Th Đ, huyện C M, tỉnh Đồng Nai, vắng mặt.

2. Ông Trương Văn Lượm E, sinh năm 1991; thường trú: Ấp Đ Đ, xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: Số 79A khu phố M, phường A Ph, thị xã Th A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

3. Bà Trần Thị H, sinh năm 1989; thường trú: Khóm B, Phường B, thị xã G C, tỉnh Tiền Giang; tạm trú: Tổ MT, khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1994; thường trú: Số 5/12A khu phố Đ Ch, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Hoàng N là người nghiện ma túy và bắt đầu sử dụng ma túy vào tháng 12/2017. Khoảng 08 giờ ngày 14/4/2018, N đang đi trên đường thuộc khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì H (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện cho N hỏi mượn 400.000 đồng để góp tiền mua ma túy về sử dụng thì N đồng ý. N bỏ thêm 600.000 đồng, rồi điều khiển xe mô tô biển số 60FT-1482 đến khu vực bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy. N gọi điện cho một người phụ nữ tên M (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy, M nói sẽ có người giao ma túy cho N khi N đến khu vực bến xe M Đ. Đến nơi, N gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) N đưa 1.000.000 đồng và lấy 01 gói ma túy được bảo quản trong một gói giấy bạc quấn băng keo màu đen. Mua xong, N để gói ma túy vào gói thuốc Jet, bỏ vào túi áo khoác đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô biển số 60FT-1482 về lại phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khi N đi đến đường C D thì H điện thoại lấy ma túy và đưa tiền cho N, H hẹn gặp N tại Đình thần T L thuộc khu phố T L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khi N đang lưu thông trên đường Ng Th M Kh thuộc khu phố Ch L, phường T Đ H thì bị lực lượng tuần tra Công an phường T Đ H phát hiện N có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. N tự lấy trong túi áo khoác đang mặc một gói giấy bạc bên trong có chứa chất màu trắng, N khai nhận là ma túy nên Công an tiến hành lập biên bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tang vật tạm giữ gồm: 01 (một) gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng quấn băng keo màu đen, 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Sirius màu đỏ đen biển số 60FT-1482 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu đen bên trong có sim số 01679199593.

Căn cứ Kết luận giám định số 228/MT-PC54 ngày 19/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng 0,4890 gam, loại Heroin.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì Kết luận giám định số 228/MT-PC54 ngày 19/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với điện thoại di động hiệu Oppo màu đen bên trong có sim số 01679199593 là tài sản của bà Trần Thị H. Bà H cho N mượn làm phương tiện liên lạc, N sử dụng vào việc phạm tội bà H không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã trả điện thoại cùng số sim cho bà H.

Đối với người phụ nữ tên M và người thanh niên bán ma túy cho N tại khu vực bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số 219/CT-VKS ngày 27 tháng 7 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Hoàng N về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận chuyển tội danh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N từ 01 năm đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Sirius màu đỏ đen biển số 60FT-1482, qua xác minh là hiệu Livico, số máy FMB 00008007, số khung MN9H 005007 do ông Nguyễn Công M đứng tên chủ sở hữu. Ông M bán lại cho ông Trương Văn Lượm E không làm thủ tục sang tên. Ông E bán lại cho Nguyễn Hoàng N không làm thủ tục sang tên, N sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước;

- Đối với 01 (một) bì thư niêm phong số 228/PC54 bên trong chứa Heroin, trọng lượng sau giám định 0,4533g là vật cấm lưu thông nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Nguyễn Hoàng N là người nghiện ma túy và bắt đầu sử dụng ma túy vào tháng 12/2017. Khoảng 08 giờ ngày 14/4/2018, N đang đi trên đường thuộc khu phố T Ph 1, phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì H (không rõ nhân thân, lai lịch) gọi điện cho N hỏi mượn 400.000 đồng để góp tiền mua ma túy về sử dụng thì N đồng ý. N bỏ thêm 600.000 đồng, rồi điều khiển xe mô tô biển số 60FT-1482 đến khu vực bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy. N gọi điện cho một người phụ nữ tên M (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy, M nói sẽ có người giao ma túy cho N khi N đến khu vực bến xe M Đ. Đến nơi, N gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) N đưa 1.000.000 đồng và lấy 01 gói ma túy được bảo quản trong một gói giấy bạc quấn băng keo màu đen. Mua xong, N để gói ma túy vào gói thuốc Jet, bỏ vào túi áo khoác đang mặc trên người rồi điều khiển xe mô tô biển số 60FT-1482 về lại phường T B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khi N đi đến đường C D thì H điện thoại lấy ma túy và đưa tiền cho N, H hẹn gặp N tại Đình thần T L thuộc khu phố T L, phường T Đ H, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Khi N đang lưu thông trên đường Ng Th M Kh thuộc khu phố Ch L, phường T Đ H thì bị lực lượng tuần tra Công an phường T Đ H phát hiện N có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. N tự lấy trong túi áo khoác đang mặc một gói giấy bạc bên trong có chứa chất màu trắng, N khai nhận là ma túy nên Công an tiến hành lập biên bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Căn cứ Kết luận giám định số 228/MT-PC54 ngày 19/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi đến giám định là ma túy, có trọng lượng 0,4890 gam, loại Heroin.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục mua bán, vận chuyển, sản xuất trữ trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các Điều 248, 250, 251 và 252 của Bộ luật này chưa xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500gam.

c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; …”

Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Hoàng N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án. Như vậy, hành vi của bị cáo được miêu tả tại Cáo trạng số 219/CT-VKS ngày 27 tháng 7 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận chuyển tội danh của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

 [3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có ma túy sử dụng bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ chuyển trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu thể hiện bị cáo là người nghiện ma tý và có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đưa vào cơ sở cai nghiện đã được xóa tiền sự nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

 [4] Về xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) bì thư niêm phong số 228/PC54 bên trong chứa Heroin, trọng lượng sau giám định 0,4533g là vật cấm lưu thông nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Sirius màu đỏ đen biển số 60FT-1482 do Nguyễn Hoàng N sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với điện thoại di động hiệu Oppo màu đen bên trong có sim số 01679199593 là tài sản của bà Trần Thị H. Bà Hạnh cho N mượn làm phương tiện liên lạc, N sử dụng vào việc phạm tội bà H không biết nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã trả điện thoại cùng số sim cho bà H là đúng quy định của pháp luật.

Đối với người phụ nữ tên M và người thanh niên bán ma túy cho Nam tại khu vực bến xe M Đ thuộc quận B Th, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đưa ra đối với bị cáo về các tình tiết giảm nhẹ, mức hình phạt và xử lý vật chứng. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp, có cơ sở chấp nhận.

Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2018.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong số 228/PC54 bên trong chứa Heroin, trọng lượng sau giám định 0,4533g.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) xe mô tô màu đỏ đen biển số 60FT-1482, qua xác minh là hiệu Livico, số máy FMB 00008007, số khung MN9H 005007 (xe không có gương chiếu hậu, không bửng, bể dàn mủ hai bên xe).

 (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 27/7/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 1, 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Nguyễn Hoàng N phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 212/2018/HS-ST ngày 14/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:212/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về