Bản án 21/2021/HS-ST ngày 23/02/2021 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 23/02/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 23 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 382/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HS ngày 29/01/2021 đối với các bị cáo:

1/ Hoàng M N, sinh năm 1955, tại tỉnh H Dương; Thường trú: Quốc lộ A, Khu phố B, phường C, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M; Cư trú: Nhà số A, đường số B, Khu phố C, phường D, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn D (chết) và bà: Nguyễn Thị D (chết); Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị N và 02 con; Tiền án, tiền sự: không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

2/ Huỳnh Quốc H, sinh năm 1978, tại tỉnh Quảng Nam; Thường trú: A, Nguyễn Văn Đậu, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí M; Nơi cư trú: A, đường Nguyễn Xí, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí M; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Huỳnh Công H và bà: Phan Thị Q; Tiền án, tiền sự: không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

3/ Đỗ M S, sinh năm: 1975, tại Quảng Nam; Thường trú: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam; Cư trú: A, đường số B, Khu phố C, phường D, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M; Nghề nghiệp: buôn bán; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đỗ V và bà Đặng Thị N; Bị cáo có vợ Lê Thị M T, 02 con, con nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

4/ Trần Tấn M, sinh năm: 1964, tại Quảng Nam; Thường trú: A, Xô Viết Nghệ Tĩnh, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí M; Cư trú: A, Đường số B, Khu phố C, phường D, Thành phố Thủ Đức, Thành Hồ Chí M; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần L và bà Nguyễn Mỹ H; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Chiêu Danh V và 04 con, con nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án: không; tiền sự: không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Huỳnh Thị Tuyết P; Địa chỉ: A, đường số B, Khu phố C, phường D, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ ngày 24/7/2020, Huỳnh Quốc H, Đỗ M S, Trần Tấn M và Hoàng M N đến quán cà phê “TA”, địa chỉ số 86, đường số 17, Khu phố 3, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức (nay là Thành phố Thủ Đức) do chị Huỳnh Thị Tuyết P làm chủ quán để uống nước. Tại đây, trong khi uống nước bốn người cùng rủ nhau đánh bài phỏm làm cái xoay vòng, thắng thua bằng tiền. N liền lấy bộ bài tây 52 lá mang theo, rồi chia cho 4 người chơi, mỗi người được chia 09 lá bài, người nào thắng thì được chia 10 lá bài và đánh trước, quy định 03 lá bài trở lên liên tục đồng chất hoặc có 03 lá bài giống nhau gọi là phỏm, người nào có 03 phỏm là “ù” thắng mỗi người 100.000 đồng, người nào không có phỏm thì cháy thua 80.000 đồng, lá bài đầu tiên đánh ra bị người kế bên ăn thì thua 20.000 đồng, lá bài thứ hai đánh ra bị người kế bên ăn thì thua 40.000 đồng, còn là bài thứ ba (chốt hạ) đánh ra bị ăn thì thua 80.000 đồng, nếu người nào bị ăn hết 03 lá thì đền ù và pH trả tiền thua 300.000 đồng. Người nào có điểm ít hơn là thắng và 03 tụ còn lại tính điểm theo thứ tự từ thấp lên cao được tính thua nhất là 20.000 đồng, thua nhì là 40.000 đồng, thua ba là 60.000 đồng, nếu người nào thắng ù thì tự bỏ số 20.000 đồng vào vỏ hộp bài đặt gần bàn dùng để mua cơm và nước sử dụng chung.

Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi các bị cáo đang đánh bạc trái phép với nhau thì bị Công an phường Hiệp Bình Chánh, Công an quận Thủ Đức phát hiện, kiểm tra và lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Thu giữ của N số tiền dùng đánh bạc 1.000.000 đồng, thu giữ của S số tiền dùng đánh bạc 4.400.000 đồng và số tiền 10.000.000 đồng không dùng để đánh bạc, thu giữ của H số tiền dùng đánh bạc 6.700.000 đồng, thu giữ của M số tiền dùng đánh bạc 2.240.000 đồng và số tiền 160.000 đồng để trong vỏ hộp bài bằng giấy là tiền do các bị cáo bỏ vào sau khi thắng ván ù dùng để mua cơm và nước.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Thủ Đức, Hoàng M N, Đỗ M S, Huỳnh Quốc H, Trần Tấn M khai nhận:

Hoàng M N mang theo số tiền 1.200.000 đồng để đánh bạc, đã đánh được nhiều ván, đến khi bị bắt quả tang, N thua số tiền 200.000 đồng, bị thu giữ trong người số tiền 1.000.000 đồng.

Huỳnh Quốc H mang theo số tiền 6.500.000 đồng dùng để đánh bạc, đã đánh được nhiều ván đến khi bị bắt quả tang thắng số tiền 200.000 đồng, bị thu giữ số tiền 6.700.000 đồng.

Đỗ M S mang theo số tiền 14.000.000 đồng nhưng chỉ bỏ ra số tiền 4.000.000 đồng để đánh bạc, đã đánh được nhiều ván, đến khi bị bắt quả tang thắng số tiền 400.000 đồng, bị thu giữ số tiền trong người 14.000.000 đồng, trên chiếu bạc 400.000 đồng.

Trần Tấn M mang theo số tiền 2.800.000 đồng dùng để để đánh bạc, đã đánh nhiều ván, đến khi bị bắt quả tang, bị thua số tiền 560.000 đồng, bị thu giữ trong người số tiền 1.500.000 đồng trong người và trên chiếu bạc là 740.000 đồng.

Vật chứng vụ án thu giữ:

- 01 (một) bộ bài tây 52 lá;

- Số tiền 14.500.000 đồng sử dụng vào mục đích đánh bạc;

- Tiền thu trong người S không dùng đánh bạc: 10.000.000 (Mười triệu) đồng đã trả lại cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 01/CT–VKS ngày 30/11/2020, Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Thủ Đức đã truy tố các bị cáo Hoàng M N, Huỳnh Quốc H, Đỗ M S, Trần Tấn M, về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Thủ Đức giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đề nghị áp dụng các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt đối với các bị cáo:

Hoàng M N, Huỳnh Quốc H, Đỗ M S, Trần Tấn M mỗi bị cáo từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Ngoài ra còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng đúng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận về hành vi phạm tội, lời sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ lời khai của các bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa, các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ xác định:

Khong 15 giờ ngày 24/7/2020, tại quán cà phê “TA”, địa chỉ số 86, đường số 17, Khu phố 3, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, Thành Hồ Chí M, Hoàng M N, Huỳnh Quốc H, Đỗ M S và Trần Tấn M dùng tổng số tiền 14.500.000 đồng đánh bạc trái phép dưới hình thức đánh bài Phỏm để thắng thua bằng tiền với nhau thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc”, số tiền dùng để đánh bạc đối với các bị cáo từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nên Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính giản đơn, trong đó các bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành. Vì vậy cần pH xử lý các bị cáo tương xứng với tính chất, hành vi và vai trò phạm tội của các bị cáo, nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo và thể hiện sự ăn năn hối cải; Các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo là lao động chính trong gia đình, số tiền mà các bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn, bị cáo N là người cao tuổi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, nên giảm nhẹ cho các bị cáo một phần trách nhiệm hình sự mà lẽ ra các bị cáo pH chịu. Ngoài ra, các bị cáo có nhân thân tốt và đều có nơi cư trú ổn định rõ ràng, từ khi được tại ngoại đến nay không có vi phạm gì, có khả năng tự cải tạo trong môi trường xã hội cụ thể để hoàn lương, không cần thiết cách ly ra khỏi xã hội nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho các bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục và tạo điều kiện để các bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình.

[4] Về xử lý vật chứng: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy; đối với tiền Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam thu trên chiếu bạc 14.500.000 đồng cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Về án phí: Các bị cáo S, H, M pH nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định; Bị cáo N sinh năm 1955 là người cao tuổi, bị cáo có đề nghị được miễn án phí nên thuộc trường hợp được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Hoàng M N, Huỳnh Quốc H, Đỗ M S, Trần Tấn M phạm tội “Đánh bạc”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Hoàng M N: 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc H: 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Thời gian thử thách là 01 (một) năm (06) sáu tháng tính từ ngày tuyên án.

- Xử phạt bị cáo Đỗ M S: 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm (06) sáu tháng tính từ ngày tuyên án.

- Xử phạt bị cáo Trần Tấn M: 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm (06) sáu tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Hoàng M N cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Bình Chánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Huỳnh Quốc H cho Ủy ban nhân dân Phường 26, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí M giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Đỗ M S cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Bình Chánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Trần Tấn M cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Bình Chánh, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí M giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo pH chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 14.500.000 đồng theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.1054723.00000 tại Kho bạc nhà nước Thành phố Thủ Đức, lập ngày 25/9/2020.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng và 01 Hộp vỏ đựng bài bằng giấy (5x7) cm.

(Theo phiếu nhập kho số NKT/2021/10 ngày 15/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Thủ Đức, nay là Thành phố Thủ Đức).

4. Áp dụng 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Huỳnh Quốc H, Đỗ M S, Trần Tấn M mỗi bị cáo pH nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Hoàng M N được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Người tham gia tố tụng vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

(Đã giải thích chế định án treo).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HS-ST ngày 23/02/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về