Bản án 21/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

 BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Nô xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Ma Văn L, sinh năm 1990 tại tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: Thôn T, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ma Văn P (đã chết) và bà Lục Thị Đ, sinh năm 1957; vợ Nguyễn Thị M (đã ly hôn năm 2018) và 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 08/02/2021 đến ngày 11/02/2021 chuyển tạm giam, đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện K – Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1986 – có mặt;

Nơi cư trú: Thôn T, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ma Văn L là người nghiện ma tuý. Khoảng 15 giờ ngày 08/02/2021 L điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát: 53Y2-8797 đi từ nhà tại xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đến khu vực làng của người H’Mông thuộc thôn P, xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Nông để tìm mua ma tuý về sử dụng (do trước đó L nghe một số người nghiện ma tuý giới thiệu tại khu vực này có người bán ma tuý). Khoảng 16 giờ cùng ngày L đến thôn P thì gặp 01 người đàn ông dân tộc H’Mông (không rõ nhân thân, lai lịch) đang đứng ở đầu thôn, nhận ra đây là người đã bán ma tuý cho mình 01 lần trước đó ở khu vực xã Q, huyện G, tỉnh Đăk Nông nên L đi lại hỏi: “Có biết ở đâu bán ma tuý Hêroin không, tôi muốn mua” thì người này nói: “Đưa tiền để tôi đi mua cho”, L đưa cho người này 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng), khoảng 03 phút sau người này trở lại đưa cho L 02 (hai) gói ma tuý được gói bằng giấy kẻ ô ly. L bỏ số ma tuý vào vỏ bao thuốc lá hiệu CARAVEN, cất vào túi quần đang mặc trên người rồi điều khiển xe đi về. Trên đường về L lấy một ít ma tuý ra sử dụng, số ma tuý còn lại L tiếp tục cất trong túi quần và điều khiển xe đi về nhà tại xã R. Đến 16 giờ 40 phút cùng ngày, khi đến đoạn đường nhựa thuộc thôn P, xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Nông thì bị Công an xã Q bắt quả tang, thu giữ 02 (hai) gói ma tuý, 01 (một) điện thoại di động hiệu Itel màu đen, và 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 53Y2.8797.

Ngày 08/02/2021 cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô đã ra Quyết định số 13 Trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông giám định đối với số chất rắn màu trắng thu giữ được. Tại bản kết luận giám định số 28/KLMT-PC09 ngày 10/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận:

“Chất rắn màu trắng đựng trong 02 (hai) gói giấy màu trắng được niêm phong trong bì thư gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 0,3750 gam; là Heroine”.

Cáo trạng số 22/CTr-VKS, ngày 07/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố bị cáo Ma Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô thực hành quyền công tố luận tội và tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ma Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ma Văn L từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,3094 gam Hêrôin còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu 28/PC09, ghi mẫu hoàn trả;

- Trả lại cho bị cáo Ma Văn L 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số Imei 1: 356525113834168, số Imei 2: 356525113834176.

- Trả lại cho chị Nguyễn Thị M 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu trắng - đen, biển kiểm soát: 53Y2-8797 (xe đã qua sử dụng).

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận và đề nghị gì về hình phạt.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được thẩm tra công khai tại phiên toà, do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Ma Văn L là người nghiện ma túy nên vào hồi 16 giờ ngày 08/02/2021 bị cáo L đã mua 02 gói ma túy của người đàn ông dân tộc H’ Mông với giá 800.000 đồng nhằm mục đích để sử dụng. Sau khi mua ma túy bị cáo đã lấy một ít sử dụng, số còn lại bị cáo cất giấu trong túi quần và điều khiển xe về nhà. Đến 16 giờ 40 phút cùng ngày khi đi đến khu vực đường nhựa thuộc thôn P, xã Q, huyện K, tỉnh Đắk Nông, bị cáo bị Công an xã Q, huyện K bắt quả tang thu giữ trên người bị cáo 02 gói ma túy, với khối lượng 0,3750 gam.

Tại bản kết luận giám định 28/KLMT-PC09 ngày 10/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 02 (hai) gói giấy màu trắng được niêm phong trong bì thư gửi giám định đều là chất ma túy, có tổng khối lượng mẫu là 0,3750 gam; là Heroine.

Như vậy, với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, khối lượng Hêrôin bị cáo tàng trữ trái phép (0,3750 gam), đã đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Ma Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…………………………………………………………….

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3]. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Ma Văn L là nghiêm trọng, nguy hiểm, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an ở địa phương. Do đó cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng đối với bị cáo.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã chứng minh bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Đối với người người đàn ông dân tộc H’ Mông đã bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô tiếp tục xác minh, làm rõ và xem xét xử lý khi có đủ cơ sở.

Đối với chị Nguyễn Thị M đã có hành vi cho bị cáo L mượn xe mô tô nhãn hiệu HONDA DREAM, màu trắng đen, biển kiểm soát: 53Y2-8797. Tuy nhiên, chị M không biết mục đích bị cáo L mượn xe để đi mua ma túy nên không có căn cứ xử lý đối với chị M.

[8]. Về xử lý vật chứng:

8.1. Đối với 0,3094 gam Hêrôin (khối lượng hoàn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án, xét thấy không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

8.2. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số Imei 1:

356525113834168, số Imei 2: 356525113834176 là tài sản hợp pháp của bị cáo Ma Văn L; 01 xe máy nhãn hiệu HONDA DREAM, màu trắng - đen, biển kiểm soát: 53Y2-8797 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị M. Xét thấy, các tài sản trên không liên quan đến tội phạm vì vậy cần trả lại cho các chủ sở hữu hợp pháp.

[9] . Về án phí: Bị cáo Ma Văn L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Ma Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Ma Văn L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 08/02/2021.

3. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a, b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự.

3.1. Tịch thu tiêu hủy:

- 0,3094 gam Hêrôin (khối lượng hoàn lại sau giám định) được niêm phong trong bì thư ký hiệu 28/PC09.

3.2. Trả lại tài sản cho chủ sơ hữu hợp pháp:

- 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, số Imei 1: 356525113834168, số Imei 2: 356525113834176 cho bị cáo Ma Văn L - 01 xe máy nhãn hiệu HONDA DREAM, màu trắng - đen, biển kiểm soát:

53Y2-8797 cho chị Nguyễn Thị M.

(Toàn bộ vật chứng bị tịch thu tiêu hủy và tài sản trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 07/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Krông Nô với Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Ma Văn L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 21/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về