Bản án 21/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2021/HSST ngày 08 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST- HS ngày 18/02/2021 đối với bị cáo:

Triệu Văn L , sinh ngày 03/01/1988 tại Vĩnh Phúc; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn Hương Ngải, xã Triệu Đề, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Triệu Thị M, bố không xác định; có vợ là Đỗ Thị H (đã ly hôn); con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 20/12/2020 đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 20/12/2020, Tổ công tác của Công an phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực Đồi Cao thuộc Tổ dân phố Trần Quốc Toản, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, phát hiện Triệu Văn L có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra lập biên bản sự việc và thu giữ tại lòng bàn tay trái của L 01 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất cục bột màu trắng, tiến hành niêm phong ký hiệu A1 (L tự khai nhận là ma túy Heroin của L vừa mua để sử dụng cho bản thân).

Cùng ngày, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên có Quyết định trưng cầu giám định đối với 01 gói giấy bên trong có chứa chất cục bột màu trắng ký hiệu A1 thu giữ của Triệu Văn L. Tại Kết luận giám định số 3259/KLGĐ ngày 23/12/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 là ma túy Heroine, có khối lượng 0,2285g (không phảy hai hai tám năm gam, không kể bao bì). Hoàn trả mẫu còn lại sau giám định gồm: 0,1885gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong kín trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.

Về nguồn gốc 01 gói ma túy Heroine thu giữ của Triệu Văn L , quá trình điều tra L khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 20/12/2020, L đang ở nhà thì nảy sinh ý định sử dụng ma túy (Heroin) nên L đi xe bus đến thành phố Vĩnh Yên tìm rồi đi bộ đến ngõ 4 đường Trần Quốc Tuấn, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên. L gặp 01 người phụ nữ (không rõ họ tên, tuổi và địa chỉ) và mua được của người phụ nữ này 01 gói Heroin với giá 200.000,đ. Sau đó, L cầm gói ma túy Heroin ở tay trái rồi đi bộ tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đến khu vực Đồi Cao thuộc Tổ dân phố Trần Quốc Toản, phường Ngô Quyền thì bị Công an phát hiện và thu giữ gói ma túy như nêu trên.

Cáo trạng số 30/CT-VKSTP.VY ngày 04/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Triệu Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Triệu Văn L khai nhận về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Triệu Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Triệu Văn L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,1885gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói sau giám định; không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Triệu Văn L tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản sự việc; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 15 giờ ngày 20/12/2020, tại khu vực Đồi Cao thuộc Tổ dân phố Trần Quốc Toản, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác Công an phường Ngô Quyền thành phố Vĩnh Yên kiểm tra phát hiện Triệu Văn L có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy để sử dụng cho nhu cầu nghiện của bản thân. Kết quả giám định là gói ma túy Heroin có khối lượng 0,2285 gam, hoàn trả mẫu sau giám định 0,1885g ma túy Heroin và toàn bộ bao gói.

Hành vi nêu trên của bị cáo Triệu Văn L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 05 năm tù.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Bị cáo phạm tội theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt tù đến 05 năm tù nên theo quy định của Bộ luật Hình sự thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, chỉ vì nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng, thu nhập gì, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án: Đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho Triệu Văn L ngày 20/12/2020, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch cụ thể của người này. Do vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh khi nào làm rõ xử lý sau.

[5] Về Vật chứng của vụ án: Đối với 0,1885 gam ma túy Heroin và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả” hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Triệu Văn L 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt bị tạm giữ, tạm giam ngày 20/12/2020.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy 0,1885 gam ma túy (Heroin) và toàn bộ bao gói hoàn lại sau giám định (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/02/2021).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Triệu Văn L phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 21/2021/HS-ST ngày 03/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về