Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 21/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 428/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Nguyễn Thị Út H, sinh năm 1980.

Địa chỉ: ấp P, xã V, huyện G, tỉnh T.

* Bị đơn: Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1981.

Địa chỉ: ấp P, xã V, huyện G, tỉnh T.

(Chị H và anh T có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và trong suốt quá trình giải quyết nguyên đơn chị Nguyễn Thị Út H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Ngọc T sống chung với nhau vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Long V, huyện G vào ngày 01/7/2002 Thời gian đầu sống với nhau hạnh phúc, đến tháng 01/2018 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp, anh T thường xuyên ăn nhậu đánh đập chị, không chăm lo cho gia đình, chị đã khuyên anh T sửa đổi tính tình rất nhiều lần nhưng anh T vẫn không sửa đổi, dẫn đến từ đó chị và anh T phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, chị và anh T đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không thành, chị và anh T đã sống ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay. Nay tình cảm không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

- Về con chung: có 02 con chung Nguyễn Minh N, sinh ngày 22/11/2000 (đã trưởng thành). Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007.

Khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu K.

Về tài sản chung, về nợ chung: chị và anh T tự thỏa thuận phân chia nên không yêu cầu giải quyết.

* Tại bản tự khai bị đơn anh Nguyễn Ngọc T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Thị Út H sống chung với nhau vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện G vào ngày 01/7/2002. Thời gian đầu sống với nhau hạnh phúc, đến tháng 01/2018 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp anh và chị H đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không thành. Anh và chị H đã sống ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay. Nay chị H yêu cầu được ly hôn với anh thì anh đồng ý ly hôn.

- Về con chung: có 02 con chung Nguyễn Minh N, sinh ngày 22/11/2000 (đã trưởng thành). Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007.

Khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu K thì anh T đồng ý giao Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007 cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh T không cấp dưỡng nuôi cháu K.

Về tài sản chung, về nợ chung: anh và chị H tự thỏa thuận phân chia nên không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Út H có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn anh Nguyễn Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H, anh T.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc yêu cầu xin ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện G theo quy định Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Út H và anh Nguyễn Ngọc T sống chung với nhau vào năm 1999, có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện G vào ngày 01/7/2002. Thời gian đầu sống với nhau hạnh phúc, đến tháng 01/2018 thì phát sinh mâu thuẫn vợ chồng do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp, chị H và anh T đã nhiều lần hàn gắn tình cảm nhưng không thành, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị H và anh T đã sống ly thân từ tháng 01/2018 cho đến nay. Do đó việc chị H yêu cầu ly hôn với anh T là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Đối với cháu Nguyễn Minh N, sinh ngày 22/11/2000 (đã trưởng thành) nên không đặt ra xem xét.

Đối với cháu Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007 hiện nay đang sống chung với chị H, do chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng nên việc chị H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K là có cơ sở phù hợp với nguyện vọng của cháu K mong muốn khi chị H và anh T ly hôn thì cháu K có nguyện vọng được sống chung với chị H nên việc giao cháu K cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là có cơ sở, phù hợp với quy định pháp luật.

Về cấp dưỡng: Cần chấp nhận yêu cầu của chị H không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi cháu K nên anh T không phải cấp dưỡng nuôi cháu K.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh T tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều: 28, 35, 39, 147, Điều 228, Điều 266, Điều 271 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng: Các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Út H.

- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị Út H được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T.

- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh K, sinh ngày 21/12/2007 cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu K đủ 18 tuổi. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi cháu K.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung, về nợ chung: tự thỏa thuận phân chia nên không đặt ra giải quyết.

- Về án phí HNST:

Chị Nguyễn Thị Út H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai số 0017044 ngày 15/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G được cấn trừ xem như chị H đã nộp xong án phí.

- Về quyền kháng cáo bản án: Nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Nguyên đơn, Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt bản án hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp xin ly hôn nuôi con

Số hiệu:21/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về