Bản án 21/2021/DS-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 21/2021/DS-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

 Ngày 26 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 224/2020/TLST – DS ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST- DS ngày 25 tháng 3 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2021/QĐST-DS ngày 09 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Thanh T, sinh năm: 1974; Nơi cư trú: Số nhà 479/4, ấp G, xã A Đ, huyện P, tỉnh Bến Tre (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn C, sinh năm: 1974 (có mặt).

Bà Phan Thị T, sinh năm: 1973 (có mặt).

Cùng nơi cư trú: Số nhà 216/1, ấp G, xã A Đ, huyện P, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, đơn xin thay đổi yêu cầu khởi kiện và trong quá trình tố tụng tại tòa - nguyên đơn ông Lê Thanh T trình bày:

Trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2017, ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T có đến cửa hàng T P do ông làm chủ để mua thức ăn nuôi tôm và thuốc thú y thuỷ sản. Giữa hai bên có thỏa thuận cửa hàng của ông sẽ giao thức ăn trước, đến cuối vụ ông C và bà T có nghĩa vụ trả tiền cho ông. Thực hiện theo thỏa thuận trên ông đã giao thức ăn nuôi tôm và thuốc thú y thuỷ sản cho ông C và bà T đầy đủ, ông C và bà T có thanh toán tiền từng đợt. Sau đó, hai bên có tổng kết nợ lại, tính đến ngày 11/11/2017 ông C và bà T còn nợ ông số tiền 475.714.000 đồng. Ông đã nhiều lần yêu cầu ông C và bà T trả tiền, nhưng ông C và bà T vẫn không trả. Nên ông khởi kiện yêu cầu ông C và bà T trả cho ông số tiền 475.714.000 đồng, qua hoà giải ông C và bà T chỉ thừa nhận còn nợ ông số tiền 420.940.000 đồng. Do có sơ sót trong quá trình quản lý sổ sách nợ ông không có ghi rõ số tiền, nên ông đồng ý số tiền ông C và bà T còn nợ ông là 420.940.000 đồng.

Tại toà hôm nay, ông yêu cầu Toà giải quyết buộc ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông số tiền 420.940.000 đồng, yêu cầu trả một lần, không yêu cầu tính lãi suất. Số tiền này ông yêu cầu ông C và bà T trả cho cá nhân ông vì ông là chủ cửa hàng và cũng là người trực tiếp đứng ra giao dịch, mua bán thức ăn nuôi tôm và thuốc thú y thuỷ sản cho ông C và bà T.

Theo nội dung bản tự khai, biên bản lấy lời khai, hòa giải cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và trong quá trình tố tụng tại tòa - bị đơn ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T trình bày:

Ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T thừa nhận trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến năm 2017, ông C và bà T có đến cửa hàng của ông Lê Thanh T để mua thức ăn nuôi tôm và thuốc thú y thuỷ sản, hình thức mua bán hai bên thỏa thuận là cửa hàng của ông T bao hết vụ nuôi tôm, hộ nuôi tôm trả tiền cuối vụ, hình thức giao dịch là người nuôi tôm nhận thức ăn của cửa hàng và ký nợ, tổng kết cuối vụ trả tiền. Do nuôi tôm bị thua lỗ nên ông C và bà T không trả được tiền nợ thức ăn cho cửa hàng của ông T. Hiện nay, ông C và bà T còn nợ ông T số tiền 420.940.000 đồng.

Tại tòa hôm nay, ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T đồng ý có nghĩa vụ liên đới trả cho ông T số tiền 420.940.000 đồng, nhưng do cuộc sống gia đình đang gặp khó khăn nên xin được trả dần cho ông T mỗi năm 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ theo đúng thủ tục tố tụng. Các đương sự trong vụ án là nguyên đơn và bị đơn Phan Thị T đều đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn Huỳnh Văn C không tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh T về việc buộc ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Lê Thanh T số tiền 420.940.000 đồng (Bốn trăm hai mươi triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày của các đương sự; sau khi phân tích, đánh giá toàn diện, nhận định đầy đủ, khách quan về các chứng cứ, những tình tiết của vụ án và đề nghị của Kiểm sát viên; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ vào đơn khởi kiện của ông Lê Thanh T về việc yêu cầu bị đơn Huỳnh Văn C và Phan Thị T trả tiền mua bán thức ăn nuôi tôm, thuốc thú y thủy sản. Bị đơn Huỳnh Văn C và Phan Thị T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại số nhà 216/1, ấp G, xã A Đ, huyện P, tỉnh Bến Tre, nên căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ Luật tố tụng dân sự thì xác định đây là vụ án tranh chấp về hợp đồng mua bán tài sản và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

[2] Về nội dung:

Hợp đồng mua bán tài sản được xác lập giữa nguyên đơn Lê Thanh T với bị đơn Huỳnh Văn C, Phan Thị T được giao kết trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng, cả hai đều có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự nên được xem là hợp đồng hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại tòa, ông Lê Thanh T chỉ yêu cầu ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông T số tiền 420.940.000 đồng. Ông C và bà T đều thừa nhận hiện nay còn nợ ông T số tiền 420.940.000 đồng và đồng ý có nghĩa vụ liên đới trả cho ông T số tiền 420.940.000 đồng này. Do đó, việc ông T yêu cầu ông C và bà T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông T số tiền 420.940.000 đồng này là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về yêu cầu trả dần nợ: Ông C và bà T cho rằng do cuộc sống gia đình đang gặp khó khăn, nên xin được trả dần số tiền còn nợ cho ông T với cách thức mỗi năm trả 50.000.000 đồng cho đến khi hết nợ, yêu cầu xin trả dần này của ông C và bà T không được ông T đồng ý. Do ông C và bà T đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ông T trong một thời gian dài đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông T, nên yêu cầu xin được trả dần số nợ của ông C và bà T không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T phải có nghĩa vụ liên đới chịu án phí với số tiền: 20.837.600 đồng.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, 147, 235 và Điều 273 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình.

Áp dụng các Điều 430, 440, Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh T. Buộc ông Huỳnh Văn C và Phan Thị T có nghĩa vụ liên đới trả cho ông Lê Thanh T số tiền 420.940.000 đồng (Bốn trăm hai mươi triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

Ông Huỳnh Văn C và bà Phan Thị T phải có nghĩa vụ liên đới chịu số tiền:

20.837.600 đồng (Hai mươi triệu tám trăm ba mươi bảy nghìn sáu trăm đồng).

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú hoàn trả số tiền tạm ứng án phí 11.515.000 đồng (Mười một triệu năm trăm mười lăm nghìn đồng) cho ông Lê Thanh T theo biên lai thu số: 0003185 ngày 06/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

Các đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/DS-ST ngày 26/04/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:21/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về