Bản án 21/2021/DS-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 21/2021/DS-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 282/2020/TLST-DS ngày 23 tháng 10 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

*Nguyên đơn: Đinh Long H, sinh năm 1983.

Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện C, tỉnh L.

*Bị đơn:

- Nguyễn Văn Q, sinh năm 1966.

- Hồ Thị Kim B, sinh năm 1971.

Cùng địa chỉ: ấp K, xã Đ, huyện G, tỉnh T.

(Anh H và ông Q, bà B có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn anh Đinh Long H trình bày:

Ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B là vợ chồng. Khoảng đầu năm 2018 vợ chồng ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B có mua vật tư nông nghiệp tại cửa hàng của anh để trồng thanh long theo kiểu mua gối đầu cuối vụ bán thanh long sẽ trả tiền. Ông Q, bà B mua nhiều lần nhưng chưa trả tiền, đến ngày 28/11/2018 khi anh H tổng kết nợ thì ông Q, bà B còn nợ lại số tiền là 11.942.000 đồng.

Nay anh H khởi kiện yêu cầu:

- Buộc ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B cùng liên đới trả cho anh H số tiền còn nợ là 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng), trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi.

*Tại Biên bản lấy lời khai ngày 29/12/2020 bị đơn ông Nguyễn Văn Q, bà Hồ Thị Kim B trình bày:

Ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B là vợ chồng. Khoảng đầu năm 2018 vợ chồng ông Q và bà B có mua vật tư nông nghiệp tại cửa hàng của anh Đinh Long H để trồng thanh long theo kiểu mua gối đầu, cuối vụ bán thanh long sẽ trả tiền cho anh H. Sau đó do trồng trọt thất bại, thanh long không có giá, dịch bệnh Covid ảnh hưởng đến giá cả thanh long nên ông Q, bà B không có khả năng thanh toán tiền vật tư nông nghiệp cho anh H cho đến nay.

Hiện nay ông Q, bà B còn nợ lại anh Đinh Long H số tiền là 11.942.000 đồng.

Nay anh H khởi kiện yêu cầu:

- Buộc ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B cùng liên đới trả cho anh H số tiền còn nợ là 11.942.000 đồng, trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi thì ông Q, bà B đồng ý trả cho anh H số tiền còn nợ là 11.942.000 đồng nhưng do hoàn cảnh khó khăn không có khả năng trả một lần nên ông Q và bà B xin trả dẫn mỗi tháng là 1.000.000 đồng (một triệu đồng), trả cho đến khi nào trả hết số tiền còn nợ là 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng), xin không trả lãi.

* Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân thủ đúng quy định pháp luật.

Về việc giải quyết vụ kiện: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 430, 440 Bộ luật dân sự, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Đinh Long H và Bị đơn ông Nguyễn Văn Q, bà Hồ Thị Kim B đều có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Hồ và ông Q, bà B.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Quan hệ tranh chấp giữa anh Đinh Long H và ông Nguyễn Văn Q, bà Hồ Thị Kim B là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 430 Bộ luật dân sự, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của anh H, yêu cầu ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B cùng liên đới trả số tiền còn nợ là 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng), trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu ông Q và bà B trả lãi là có cơ sở, bởi lẽ giữa anh H và ông Q, bà B có xác lập hợp đồng mua bán như lời trình bày của các đương sự và phù hợp với lời khai của ông Q, bà B tại Biên bản lấy lời khai đương sự ngày 29/12/2020. Nguyên đơn anh H yêu cầu ông Q, bà B cùng liên đới trả số tiền còn nợ 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng), trả một lần khi án có hiệu lực pháp luật, không yêu cầu trả lãi thì ông Q và bà B đồng ý trả số tiền còn nợ là 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng) nhưng do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có khả năng trả một lần và xin không trả lãi, ông Q và bà B xin trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng (Một triệu đồng), trả cho đến khi trả hết số tiền nợ 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng). Yêu cầu xin trả dần của ông Q và bà B không được anh H đồng ý việc xin trả dần của ông Q và bà B là kéo dài thời gian trả nợ, gây thiệt thòi quyền lợi cho anh H. Do đó, Hội đồng xét xử cần buộc ông Q và bà B có nghĩa vụ liên đới trả cho anh H số tiền 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng) khi án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với Điều 440 Bộ luật dân sự.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh H được chấp nhận nên ông Q và bà B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự 2015;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Long H.

Buộc ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B có nghĩa vụ liên đới trả cho anh Đinh Long H số tiền là 11.942.000 đồng (Mười một triệu, chín trăm bốn mươi hai ngàn đồng).

Thời gian trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của anh H cho đến khi thi hành án xong, ông Q và bà B còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

* Về án phí dân sự sơ thẩm:

+ Ông Nguyễn Văn Q và bà Hồ Thị Kim B phải chịu số tiền 597.000 đồng (Năm trăm chín mươi bảy ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

+ Hoàn lại cho anh Đinh Long H số tiền 353.000 đồng (Ba trăm năm mươi ba ngàn đồng) tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0016919 ngày 23/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các đương sự có mặt có quyền kháng cáo Bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đối với anh H vắng mặt và ông Q, bà B vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án Dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2021/DS-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản

Số hiệu:21/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về