Bản án 21/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 20/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 04 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 05 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên:Nguyễn Thị T, sinh năm 1972 tại Nho Quan, Ninh Bình. Nơi cư trú: Tổ 10, Phường TB, thành phố TĐ, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (Đã chết) và bà Nguyễn Thị M, chồng Bùi Văn B, có 02 con: con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2003; tiền án: Bản án số 08/2019/HSST ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 15/01/2019. Bản án số 31/2019/HSST ngày 07/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 08/2019/HSST buộc bị cáo phải chấp hành 07 tháng 24 ngày tù, án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 14/10/2019; tiền sự: Không; lịch sử bản thân: Bản án số 18/HSST ngày 15/3/1994 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm 50.000 đồng, đã chấp hành xong bản án. Ngày 10/8/2016 Công an huyện Gia Viễn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 206 xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 24/8/2016; bị bắt tạm giam từ ngày 05 tháng 03 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình “Có mặt”.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959, trú tại: Bồ Vi, thị trấn YT, huyện YM, tỉnh Ninh Bình “Vắng mặt”.

- Người làm chứng: anh Bùi Văn B sinh năm 1975 “Có mặt”, chị Nguyễn Thị Th sinh năm 1989, bà Nguyễn Thị V sinh năm 1954, anh Vũ Ngọc H1 sinh năm 1971, anh Ngô Văn V sinh năm 1978, anh Phạm Văn Th1 sinh năm 1979 đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 24/01/2020Nguyễn Thị T đi xe khách tại ngã ba chợ chiều thuộc Phường TB, thành phố TĐ, tỉnh Ninh Bình về quê ở huyện Yên Mô. Khi đến thị trấn YT, huyện YM, T xuống xe dự định đi vào chợ Ngò thuộc tổ dân phố Phú Thịnh, thị trấn YT, huyện YM để mua hương hoa. Khoảng 9 giờ cùng ngày, T đi bộ từ đường Quốc lộ 12B vào cổng số 1 của chợ Ngò, đến hàng bán hoa cách cổng chợ Ngò khoảng 3m, T quan sát thấy bà Nguyễn Thị H đang đứng mua hoa, trên vai bà H khoác 01 túi xách mầu trắng, có sọc đen đeo về phía sau lưng. Lúc này, bà H kéo túi xách về phía trước, lấy từ trong túi ra 01 chiếc ví bằng vải mầu đỏ, bà H mở chiếc ví bên trong có số tiền 10.000.000 đồng, lấy ra số tiền 400.000 đồng cầm ở tay, sau đó bà H bỏ chiếc ví vào túi xách, không kéo khóa túi xách lại và tiếp tục mua hoa. T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc ví tiền của bà H. T tiến lại gần, đứng sát bên trái bà H, lợi dụng lúc bà H không để ý, T dùng tay phải cho vào trong túi xách lấy chiếc ví mầu đỏ bên trong có số tiền 9.600.000 đồng cầm ở tay phải. Sau khi lấy được tài sản, T tiếp tục đi vào phía trong chợ được khoảng 3-4 bước chân thì bị bà H phát hiện, giữ lại. T hoảng sợ cầm chiếc ví vừa lấy được bỏ vào sọt hàng của một người đang đi vào phía trong chợ.

Ngay sau đó, bà H làm đơn trình báo vụ việc đến Cơ quan Công an.

Quá trình điều tra, T khai nhận hành vi phạm tội, tự nguyện giao nộp số tiền 9.600.000 đồng cho Cơ quan Công an để bồi thường cho bà H.

Tại Bản cáo trạng số 21/CT-VKS-YM ngày 09 tháng 04 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã truy tốNguyễn Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáoNguyễn Thị T đã khai nhận: Sáng ngày 24/1/2019, khi vào chợ Ngò mua hoa quả về quê thắp hương, T thấy bà H lấy một số tiền trong chiếc ví đỏ ra cầm trên tay, sau đó lại bỏ ví đỏ vào túi xách đeo ở trên vai nhưng không kéo khóa túi xách, nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp chiếc ví của bà H để lấy tiền tiêu xài. Lợi dụng lúc bà H đang cúi chọn hoa T đã thò tay phải vào túi xách lấy được chiếc ví mầu đỏ bằng vải nhung có kéo khóa và tiếp tục đi vào chợ để tẩu thoát, khi vừa đi được vài bước thì thấy bà H đuổi theo túm lấy cổ áo giữ T lại, T sợ quá ném luôn chiếc ví đỏ vào sọt phía đằng sau của một người đang đi xe đạp vào chợ, T không biết người đi xe đạp đó là ai. T biết trong ví có tiền còn số tiền cụ thể là bao nhiêu T không biết.

Trong quá trình điều tra, người bị hại bà Nguyễn Thị H trình bày: Sáng ngày 24/01/2020 bà nhờ con rể là anh Phạm Văn Th1 chở đi thành phố TĐ lấy số tiền 10.000.000 đồng do con gái gửi về cho bà để sắm tết, sau khi lấy tiền xong bà nhờ anh Th1 đèo vào chợ để mua hoa. Khi bà đang mua hoa, thấy T đứng sát cạnh, sau đó thấy túi rung nhẹ, bà nghi ngờ kiểm tra luôn thì không thấy chiếc ví trong túi đâu nên bà biết là T đã lấy trộm chiếc ví của bà và đuổi theo túm cổ áo giữ T lại. Bà thấy một người đi xe đạp đi sát vào T Ban đầu bà khai T đưa chiếc ví của bà cho một người phụ nữ khác là do bà quá bức xúc và thấy người đi xe đạp áp sát vào T về phía trong chợ nên bà đoán như vậy nhưng bà không trực tiếp nhìn thấy T có đưa chiếc ví đỏ vừa trộm được cho người đi xe đạp hay ném vào giỏ đằng sau xe của người này, bà chỉ thấy từ đằng sau lưng nên không biết người đi xe đạp này là ai, nam hay nữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố để xét xử bị cáoNguyễn Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 53 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T từ 6 (Sáu) đến 9 (Chín) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Do vật chứng không thu hồi được, bà H không có ý kiến gì khác về số tiền T đã bồi thường nên không xem xét.

Về án phí: Áp dụng Điều 136, Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH về án phí, lệ phí: Buộc bị cáo T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí theo quy định.

Lời nói sau cùng của bị cáo T: Rất hối hận về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Mô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội, giá trị tài sản đã chiếm đoạt. Như vậy, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 9 giờ ngày 24/01/2020, tại khu vực cổng chợ Ngò thuộc tổ dân phố Phú Thịnh, thị trấn YT, huyện YM, tỉnh Ninh Bình,Nguyễn Thị T đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản của bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959, trú tại tổ dân phố Bồ Vi, thị trấn YT, huyện YM, tỉnh Ninh Bình, T đã lén lút trộm cắp số tiền 9.600.000 đồng là tài sản của bà H. Bị cáo T là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện để chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi của Nguyễn Thị T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173. Tội trộm cắp tài sản:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

” Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô truy tố bị cáoNguyễn Thị T về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo:

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường số tiền 9.600.000 đồng cho người bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo đang có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tiền án: Bản án số 08/2019/HSST ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”, án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm ngày 15/01/2019. Bản án số 31/2019/HSST ngày 07/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gia Viễn xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt với Bản án số 08/2019/HSST buộc bị cáo phải chấp hành 07 tháng 24 ngày tù, án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng. Chấp hành xong toàn bộ bản án ngày 14/10/2019.

- Tiền sự: Không có.

- Nhân thân: Bản án số 18/HSST ngày 15/3/1994 của Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, án phí hình sự sơ thẩm 50.000 đồng, án phí dân sự sơ thẩm 50.000 đồng, đã chấp hành xong bản án. Ngày 10/8/2016 Công an huyện Gia Viễn ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 206 xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 24/8/2016.

[4] Xét tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đang có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, nhân thân đã từng bị xét xử, xử phạt vi phạm hành chính về các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân để lao động chân chính trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục học tập, rèn luyện, cải tạo thành người có ích cho xã hội. Khi lượng hình cũng cần xét đến tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra, hậu quả được khắc phục toàn bộ, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thật thà khai báo để cân nhắc mức hình phạt và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra,Nguyễn Thị T đã tự nguyện bồi thường cho bà Nguyễn Thị H số tiền 9.600.000 đồng, bà H đã nhận đủ số tiền và không có yêu cầu gì thêm. Đối với chiếc ví bằng vải mầu đỏ đựng tiền T chiếm đoạt không thu hồi được, bà H xác định giá trị không lớn và không yêu cầu T bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng của vụ án:

01 chiếc ví bằng vải mầu đỏ bên trong có số tiền 9.600.000 đồng màNguyễn Thị T đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị H, T khai đã bỏ vào sọt hàng của một người không quen biết đang đi vào chợ Ngò. Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm số vật chứng nêu trên nhưng không thu giữ được, do đó không có cơ sở để xử lý.

[7] Trong quá trình điều tra, bà H khai T đã đưa chiếc ví trộm cắp cho 01 người phụ nữ khác, quá trình điều tra bà H cũng không xác định được người này là ai, là nam hay nữ và có chính xác T đưa chiếc ví cho người này hay không nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[8] Về án phí: Do bị tuyên có tội nên bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáoNguyễn Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáoNguyễn Thị T 6 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 05/03/2020.

2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáoNguyễn Thị T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 20/05/2020; người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 20/05/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về