Bản án 21/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 đối với các bị cáo:

1/. C Tr S (Tên gọi khác: Không), sinh ngày: 20 tháng 02 năm 1995 tại: Huyện M H, tỉnh Qu B. Nơi cư trú: Tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông C Đ Th, sinh năm 1964 và bà Đ Th Th T, sinh năm 1966; có vợ là B Th Nh, sinh năm 1994 và 01 người con; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/3/2020, đến ngày 24/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

2/. Đ M Qu (Tên gọi khác: Không), sinh ngày: 06 tháng 6 năm 1991 tại: Huyện M H, tỉnh Qu B. Nơi cư trú: Tổ dân phố 3, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đ X C, sinh năm 1956 và bà Đ Th T, sinh năm 1958; có vợ là Ng Th Th Tr, sinh năm 1998, con: Chưa có; tiền sự: 01 tiền sự ( Ngày 30/4/2019 bị xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản ); tiền án: Không ( Nhân thân: Ngày 18/8/2006 bị xử lý hành chính về hành vi trộm cắp tài sản). Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/3/2020, đến ngày 24/3/2020 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Đ B Ch – sinh năm 2000 Địa chỉ: Tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B. Vắng mặt

Anh Đ H Th – sinh năm 1969 Địa chỉ: Tiểu khu 7, thị trấn Qu Đ, huyện M H, tỉnh Qu B. Vắng mặt

Người chứng kiến:

Anh C X V – sinh năm 1984 Địa chỉ: Xã Qu Ph, huyện Qu Tr, tỉnh Qu B. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 21/3/2020, C Tr S đến nhà anh Đ B Ch mượn xe mô tô biển kiểm soát 73C1-001.. rồi đi đến nhà Đ M Qu. Tại nhà Qu, S bàn với Qu đi mua ma túy về sử dụng thì Qu đồng ý.

S điều khiển xe mô tô đã mượn chở Qu theo đường H Ch M vào thành phố Đ H để mua ma túy. Trong quá trình đi trên đường hai người đổi lái qua lại cho nhau. Đến ngã ba B L thì S và Qu gặp một người đàn ông lạ mặt đứng trên đường, S dừng xe lại, hỏi và mua từ người đàn ông này một gói ma túy với giá 700.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong, S cất gói ma túy vào túi quần của mình rồi điều khiển xe mô tô chở Qu đi về lại huyện M H. Đến khu vực gần động Ph Nh, huyện B Tr, S và Qu dừng xe lại bên đường rồi lấy ma túy ra cùng nhau sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong S cất gói ma túy còn lại vào túi quần trước bên phải của mình rồi tiếp tục điều khiển xe mô tô chở Qu về nhà. Hai người đến tại thôn Ph Nh, xã Th H, huyện M H vào lúc 19h00’ cùng ngày thì bị tổ tuần tra công an huyện Minh Hóa bắt quả tang cùng tang vật.

Tại Bản kết luận giám định số 331/GĐ-PC09 ngày 24/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sư Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định là heroin, khối lượng 0,974gam.

Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 09, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ – CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Minh Hóa tạm giữ:

- Một phong bì thư dán kín ghi “331/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và dấu của phòng kỹ thuật hình sự. - Một xe mô tô nhãn hiệu Wave Rsx, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 73C1- 001... Xe cũ đã qua sử dụng.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã được Cơ quan điều tra làm rõ Cáo trạng số 18/CT-VKSMH ngày 02/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố các bị cáo C Tr S, Đ M Qu về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo S từ 18 tháng đến 24 tháng tù Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Qu từ 16 tháng đến 22 tháng tù Và đề nghị xử lý vật chứng: Tiêu hủy vật chứng không có giá trị sử dụng, trả lại chiếc xe mô tô cho anh Đ H Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Minh Hóa, Viện kiểm sát huyện Minh Hóa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[ 2] Về hành vi phạm tội: Mặc dù nhận thức rõ việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng C Tr S và Đ M Qu vẫn đi mua ma túy loại Heroin tàng trữ trên người nhằm mục đích sử dụng. Số ma túy mà S và Qu tàng trữ có khối lượng 0,974 gam Heroin.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp với lời khai người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ về thời gian, địa điểm, khối lượng chất ma túy, ý kiến của Kiểm sát viên. Do đó đã đủ cơ sở để khẳng định các bị cáo C Tr S và Đ M Qu phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy C Tr S và Đ M Qu là thanh niên có sức khỏe nhưng không rèn luyện lao động mà ham chơi đã nghiện ma túy và mua ma túy tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Trong vụ án này C Tr S là người khởi xướng đã cùng Đ M Qu thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của S và Qu đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại ma túy, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm.

Đối với Đ M Qu có 01 tiền sự, ngày 30/4/2019 bị Công an huyện Minh Hóa xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản.

Vì vậy cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự để lên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra đồng thời cách lý các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử cần xem xét cho các bị cáo phạm tội lần đầu, quá trình điều tra và tại phiên tòa đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

[4] Vật chứng vụ án: Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave Rsx, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 73C1-001.., xe đã qua sử dụng. Đây là phương tiện C Tr S đi mua ma túy là xe của ông Đ H Th do con trai là Đ B Ch cho S mượn nhưng ông Th không biết, vì vậy cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho ông Đ H Th.

Đối với một phong bì thư dán kín ghi “331/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình. Đây là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành vì vậy áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

Trong vụ án này có Đ B Ch đã cho C Tr S mượn xe mô tô biển kiểm soát 73C1- 001.. nhưng Ch không biết S sử dụng xe đi mua ma túy nên không xử lý trách nhiệm Đ B Ch.

Đối với nguồn gốc ma túy S và Qu khai mua của người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ nên không có cơ sở để xác minh.

Về án phí: Bị cáo C Tr S và Đ M Qu phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo C Tr S và Đ M Qu phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo C Tr S Sơn 18 ( Mười tám) tháng tù.

Thời gian tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ( ngày 21/3/2020 ) Xử phạt bị cáo Đ M Qu 16 ( Mười sáu) tháng tù. Thời gian tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ( ngày 21/3/2020 ) Tiếp tục tạm giam các bị cáo C Tr S và Đ M Qu 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

2. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng điểm b khoản 3, Điều 106 BLTTHS trả lại cho ông Đ H Th 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave Rsx, màu sơn đen trắng, biển kiểm soát 73C1-001.., xe đã qua sử dụng.

Áp dụng điểm a khoản 2, Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy: một phong bì thư dán kín ghi “331/GĐ-PC09”, “Mẫu ký hiệu A”, được niêm phong bằng các chữ ký của những người tham gia niêm phong và dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình.

Số vật chứng trên đã được chuyển giao tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Minh Hóa theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/6/2020.

3. Về án phí: Các bị cáo C Tr S và Đ M Qu mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.

Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/6/2020). Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thời hạn tính từ ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 19/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về