Bản án 21/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG NHÉ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 18/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST - HS ngày 05 tháng 6 năm 2020 đối với.

Bị cáo Kháng A V ( tên gọi khác: Kháng A D) sinh năm 1972 tại xã Chế Cu N, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái; Nơi cư trú: Bản Hua S, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm nương; trình độ văn hoá: Không; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Kháng A V (đã chết) và con bà Giàng Thị D (đã chết); Có vợ Vàng Thị P sinh năm 1974, có 06 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; Bị cáo Kháng A V bị bắt tạm giữ từ ngày 25 tháng 3 năm 2020 đến ngày 28 tháng 3 năm 2020, tạm giam từ ngày 03 tháng 4 năm 2020 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Pờ Go Lòong – luật sư thuộc đoàn luật sư tỉnh Điện Biên thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 30 ngày 25 tháng 3 năm 2020 bị cáo Kháng A V đi từ nhà sang khu vực bản Vang H, xã Nậm V, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên để tìm mua ma túy về sử dụng thì gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu. Bị cáo Kháng A V hỏi và mua được 01(một) gói nhỏ thuốc phiện với số tiền là 150.00 đồng; 05(năm) cục nhỏ Heroine với số tiền là 100.000 đồng và 04 (bốn) viên Methamphetamine với số tiền 100.000 đồng. Mua bán xong người đàn ông đó đi đâu bị cáo Kháng A V không biết, còn bị cáo Kháng A V cho vào túi áo rồi tiếp tục đi về nhà. Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 25 tháng 3 năm 2020 khi bị cáo Kháng A V đang chuẩn bị lấy thuốc phiện ra để sử dụng thì bị tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn và Công an huyện Mường Nhé phát hiện, bắt quả tang đối với Kháng A V thu giữ toàn bộ vật chứng và đưa về Công an huyện Mường Nhé để làm rõ.

Ngày 27 tháng 3 năm 2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Mường Nhé cùng với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng, khối lượng Thuốc phiện thu giữ là 4,06 gam; khối lượng Heroine thu giữ là 0,41 gam; khối lượng Methamphetamine thu giữ là 0,4 gam. Bản kết luận giám định số:294/GĐ-PC09 ngày 03 tháng 4 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén khối lượng 0,1 gam gửi giám định của Kháng A V là Methamphetamine không hoàn lại. Tổng khối lượng 0,4 gam thu được là Methamphetamine. Mẫu chất bột màu trắng khối lượng 0,12 gam gửi giám định là Heroine không hoàn lại. Tổng khối lượng 0,41 gam thu được của Kháng A Vàng là Heroine. Bản kết luận giám định số:297/GĐ-PC09 ngày 03 tháng 4 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất dẻo màu nâu đen khối lượng 0,87 gam gửi giám định là Thuốc phiện không hoàn lại. Tổng khối lượng 4,06 gam thu được của Kháng A V là Thuốc phiện.

Bản cáo trạng số: 26/CT-VKS- MN ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Nhé đã truy tố Kháng A V để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS; Xử phạt bị cáo Kháng A V từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo; Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106; 136 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy vật chứng vụ án và miễn án phí cho bị cáo.

Người bào chữa cho rằng bị cáo Kháng A V thực hiện hành vi phạm tội do nhận thức pháp luật còn hạn chế. Về tội danh không có ý kiến gì. Tình tiết giảm nhẹ trong vụ án đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét xử phạt cho bị cáo Kháng A V mức hình phạt tù 18 đến 20 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, nhất trí với nội dung truy tố trong Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo nhất trí với lời bào chữa và không có ý kiến bổ sung. Lời sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét hành vi phạm tội bị cáo thì thấy: Lời khai nhận bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định: Vào 16 giờ 30 phút ngày 25 tháng 3 năm 2020 tổ công tác Đồn biên phòng Leng Su Sìn và Công an huyện Mường Nhé làm nhiệm vụ tại bản Hua Sin, xã Chung Chải, huyện Mường Nhé phát hiện, bắt quả tang Kháng A V đang cất dấu 01(một) gói nhỏ Thuốc phiện; 04(bốn) viên Methamphetamine và 05(năm) cục nhỏ Heroine; 01(bộ) bàn đèn tự tạo là hoàn toàn đúng sự thật. Hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 4,06 gam Thuốc phiện;

khối lượng 0,41 gam Heroine và khối lượng 0,4 gam Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng của Kháng A V đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[2] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội bị cáo thì thấy: Đây là vụ án nghiêm trọng về ma túy, mặc dù bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song chỉ vì muốn có ma túy để sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây những tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, gây mất trật tự trị an, cản trở tới việc thực hiện các chính sách kinh tế, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Do vậy cần xử lý bị cáo với mức hình phạt thỏa đáng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo thì thấy: Bị cáo Kháng A V sinh ra và lớn lên ở xã Chế Cu N, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, do hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không được đi học lớn lên ở nhà phụ giúp gia đình. Năm 2016 bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chấp hành xong án trở về địa phương sinh sống. Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Kháng A V không có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

[4]Từ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Kháng A V từ 18 đến 24 tháng tù. Xét thấy đề nghị này của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó cần xem xét, xử phạt bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát.

Người bào chữa đề nghị áp dụng theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự có căn cứ áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét xử phạt cho bị cáo Kháng A V mức hình phạt từ 18 đến 20 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp nên áp dụng.

[5]Xét hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo còn nhiều khó khăn, thuộc diện hộ nghèo. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[6]Đối với đối tượng người đàn ông bán Heroine; Thuốc phiện; Methamphetamine quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi địa chỉ ở đâu, do đó không có cơ sở để xử lý.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với khối lượng 3,19 gam Thuốc phiện; khối lượng 0,29 gam Heroine; khối lượng 0,3 gam Methamphetamine còn lại sau khi trích mẫu vật gửi giám định và 01(một) bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Xét thấy bị cáo là đồng bào dân tộc thiểu số, thường trú ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn đề nghị miễn án phí. Do đó cần miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Điều tra viên, Viện kiểm sát; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, thành viên hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa; người bào chữa đều đã thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, không bị khiếu nại hoặc ý kiến gì.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Kháng A V (tên gọi khác: Kháng A D) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Xử phạt bị cáo Kháng A V: 18 ( Mười tám ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 25 tháng 3 năm 2020.

2.Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a; c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu huỷ khối lượng: 3,19 gam Thuốc phiện; khối lượng 0,29 gam Heroine; khối lượng 0,3 gam Methamphetamine và 01(một) bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện là vật chứng vụ án Kháng A Vàng.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01 tháng 6 năm 2020 giữa Công an huyện Mường Nhé và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mường Nhé.

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 của UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016. Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo Kháng A V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 18/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Nhé - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về