TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ - TP HÀ NỘI
BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 17/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 17 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở TAND huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo :
P - sinh năm 1984; Đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn Văn Sơn, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ, Tp Hà Nội; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 02/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Tào Đức Hậu và bà Nguyễn Thị Loan; có vợ là Lê Thị Hà (đã ly hôn); con: không; nhân thân: Ngày 28/7/2005 Công an huyện Chương Mỹ phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản; tiền sự: không;
Tiền án: - Tại bản án hình sự sơ thẩm số 115/2007/HSST ngày 21/9/2007, TAND tỉnh Hà Tây (nay là TP Hà Nội) xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc bị cáo phải bồi tH trả gia đình các bị hại số tiền 25.100.000 đồng. Chấp hành xong hình phạt và ra tù ngày 13/02/2012, nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 28/8/2013, tiền án phí dân sự sơ thẩm ngày 26/6/2008.
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 112/2012/HSST ngày 06/9/2012, TAND huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Trộm cắp tài sản trị giá 1.216.000 đồng).
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 14/2013/HSST ngày 09/01/2013, TAND huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội xử phạt 02 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp với 01 năm tù của bản án hình sự sơ thẩm số 112/2012/HSST ngày 06/9/2012, buộc P phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 03 năm tù.
Bị can đã chấp hành xong hình phạt tù của hai bản án và ra tù ngày 09/3/2015.
- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 82/2016/HSST ngày 06/9/2016, TAND huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt và ra tù ngày 10/7/2018.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/12/2019 đến nay. Có mặt.
*Người bị hại:
Chị Nguyễn Thị Thu H – sinh năm 1999; trú tại: Thôn 2, xã Canh Nậu, huyện Thạch Thất, Tp Hà Nội. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ ngày 22/12/2019, P từ nhà ở thôn Văn Sơn, xã Hoàng Văn Thụ, huyện Chương Mỹ đi xe khách đến thị trấn Xuân Mai để gặp bạn. Khi đi bộ đến dãy nhà trọ ở số nhà 44, thuộc Tổ 3, khu Tân Xuân, thị trấn Xuân Mai, Chương Mỹ, P quan sát xung quanh không có người qua lại nên nảy sinh ý định vào trộm cắp tài sản. P phát hiện phòng trọ của chị Nguyễn Thị Thu H đang sáng đèn, cửa phòng mở, chị H đang nấu ăn, quay lưng ra ngoài. Lợi dụng sơ hở, P bước một chân vào trong phòng, lấy chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J6 của chị H để ở cuối giường ngủ, sát cửa ra vào. Khi P đang bước chân ra ngoài cửa thì anh Vũ Duy Linh phát hiện, hô hoán rồi cùng quần chúng nhân dân và Công an Đồn số 14 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P và thu giữ tang vật.
Vật chứng vụ án: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 màu ghi xám, ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng (đã cũ, đã qua sử dụng);
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 185/KL-HĐĐG ngày 23/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Chương Mỹ kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6; Màu ghi xám; Ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng (đã cũ, đã qua sử dụng), giá trị còn lại: 725.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Ngày 31/12/2019, CQĐT đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc điện thoại cho chị Nguyễn Thị Thu H quản lý, sử dụng. Chị H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường thêm gì khác.
Tại cáo trạng số 24/CT-VKS ngày 03/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ đã truy tố P về tội Trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ sau khi phân tích, giữ nguyên quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo P phạm tội Trộm cắp tài sản; đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt P từ 09 - 12 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi tH nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Bị cáo không có công ăn việc làm nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo P thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Chương Mỹ, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình Điều tra, Truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên toà bị cáo P khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai tại cơ quan điều tra và nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ đã quy kết. Bị cáo thừa nhận khoảng 16 giờ ngày 22/12/2019 bị cáo đi từ nhà đến thị trấn Xuân Mai. Khi đi bộ đến dãy nhà trọ ở số nhà 44, thuộc Tổ 3, khu Tân Xuân, thị trấn Xuân Mai, Chương Mỹ, bị cáo phát hiện phòng trọ của chị Nguyễn Thị Thu H đang sáng đèn, cửa phòng mở, chị H đang nấu ăn, quay lưng ra ngoài. Lợi dụng sơ hở, bị cáo đã lấy 01 chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J6 của chị H để ở giường ngủ, sát cửa ra vào. Sau khi lấy được tài sản bị cáo đi ra ngoài cửa thì bị phát hiện bắt quả tang cùng tang vật. Trị giá 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6; Màu ghi xám; Ốp lưng bằng nhựa dẻo màu trắng (đã cũ, đã qua sử dụng), giá trị còn lại 725.000 đồng. Hành vi trộm cắp tài sản có giá trị 725.000 đồng của bị cáo dưới 2.000.000 đồng, tuy nhiên bị cáo đã có tiền án về hành vi cưỡng đoạt tài sản, chưa được xóa án tích, nên hành vi trên của bị cáo P đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ quy kết đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm ảnh hưởng đến trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có tiền án và nhân thân về hành vi cưỡng đoạt tài sản, sau khi ra trại bị cáo không tu dưỡng cho bản thân mà lại lao vào con đường phạm tội, thể hiện sự coi tH pháp luật. Do vậy cần phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo, nhằm răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.
[4]. Đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ là, sau khi phạm tội bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội của mình. Đó là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5]. Về hình phạt bổ sung: bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa người bị hại là chị Nguyễn Thị Thu H vắng mặt, nhưng tại cơ quan điều tra chị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi tH, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo P phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Phạt P 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/12/2019 Căn cứ Điều 136 BLHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của ủy ban tH vụ quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo P phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 21/2020/HS-ST ngày 17/03/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 21/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ba Đình - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về