Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 21/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 10/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2020; thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 03/TB – TA ngày 16 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2020/QĐST – HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc P, sinh năm 1980; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Hoàng P, sinh năm 1974; cư trú tại: Ấp N, xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 17 tháng 02 năm 2020 chị Nguyễn Ngọc P trình bày: Chị và anh Trần Hoàng P kết hôn với nhau năm 1999, trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Cà Mau. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc tuy nhiên thời gian gần đây vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung, không quan tâm thương yêu chăm sóc lẫn nhau, mâu thuẫn kéo dài mặt dù đã hàn gắn tuy nhiên không mang lại kết quả. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Trần Hoàng P.

Về con chung: Chị và anh Trần Hoàng P có 02 người con chung tên Trần Trúc Q, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2002 và Trần Phúc Q, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2008. Sau khi ly hôn đối với Trần Trúc Q hiện nay đã trưỡng thành nên không yêu cầu xem xét giải quyết. Đối với Trần Phúc Q, sinh ngày 04/10/2008 hiện nay đang sống cùng chị, sau khi ly hôn tùy theo nguyện vọng của con theo ai thì người đó nuôi, nếu theo chị thì chị nuôi và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ thu, nợ trả: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Hoàng P đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản Tố tụng của Tòa án cho anh P và đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến, yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa ngày hôm nay: Chị Nguyễn Ngọc P có mặt vẫn bảo lưu quan điểm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn chị Nguyễn Ngọc P và bị đơn anh Trần Hoàng P Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển thụ lý giải quyết là đúng theo thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Anh Trần Hoàng P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai tuy nhiên anh P vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Trần Hoàng P tại phiên tòa.

[3] Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Ngọc P và anh Trần Hoàng P được xác lập trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định. Do đó hôn nhân giữa chị Nguyễn Ngọc P và anh Trần Hoàng P được xác định là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không có sự quan tâm, thương yêu chăm sóc lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng mặt dù đã được hàn gắn tuy nhiên vẫn không mang lại kết quả, hiện nay chị P và anh P đã sống ly thân với nhau. Xét thấy trong cuộc sống vợ chồng giữa chị P và anh P thực tế phát phát sinh nhiều mâu thuẫn. Mặc khác trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến ngày xét xử chị P và anh P vẫn không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa ngày hôm nay chị P vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với anh P. Hôn nhân của chị P và anh P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy nếu kéo dài tình trạng hôn nhân của anh chị thì cũng không thể đảm bảo mang lại hạnh phúc cho đôi bên. Do đó chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Ngọc P đối với anh Trần Hoàng P.

[4] Về con chung: Chị Nguyễn Ngọc P và anh Trần Hoàng P có 02 người con chung tên Trần Trúc Q, sinh ngày 10 tháng 02 năm 2002 và Trần Phúc Q, sinh ngày 04 tháng 10 năm 2008. Hiện nay Trần Trúc Q hiện nay đã trưỡng thành, đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên không đề cặp xem xét giải quyết. Đối với Trần Phúc Q sau khi ly hôn tùy theo nguyện vọng của con. Tại đơn nguyện vọng ngày 09 tháng 3 năm 2020 do chị Nguyễn Ngọc P cung cấp cho Tòa án thì cháu Trần Phúc Q có nguyện vọng được sống cùng chị Nguyễn Ngọc P. Xét thấy hiện nay cháu Q đã trên bảy tuổi, hiện nay đang sống cùng chị P và có nguyện vọng được sống cùng chị P, do đó tiếp tục giao cháu Trần Phúc Q cho chị P nuôi dưỡng là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Anh Trần Hoàng P không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom, chăm sóc con theo luật định. Anh Trần Hoàng P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc và giáo dục con không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng quyền thăm con để gây ảnh hưởng đến việc nuôi con của chị Nguyễn Ngọc P.

[5] Về tài sản chung; nợ thu; nợ trả: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Căn cứ tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Nguyễn Ngọc P phải nộp 300.000 đồng. Chị P đã dự nộp 300.000 đồng được chuyển thu.

[7] Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh Trần Hoàng P tại phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Ngọc P đối với anh Trần Hoàng P.

Giao người con chung tên Trần Phúc Q, sinh ngày 04/10/2008 hiện nay đang sống cùng chị Nguyễn Ngọc P cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Trần Hoàng P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Hoàng P không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc và giáo dục con không ai được cản trở nhưng không được lạm dụng quyền thăm con để gây ảnh hưởng đến việc nuôi con của chị Nguyễn Ngọc P.

Tài sản chung; nợ thu; nợ trả: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Ngọc P phải nộp 300.000 đồng. Chị Nguyễn Ngọc P đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0006057 ngày 17/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N được chuyển thu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 27/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:21/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về