Bản án 21/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 04 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 21/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Võ Đức C (tên gọi khác B) - sinh ngày 20/10/1992 tại huyện T, tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Tiểu khu 3, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Đức T (đã chết) và bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1964, hiện cư trú tại: Tiểu khu 3, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình. Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không

Nhân thân: Năm 2008 phạm tội phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên phạt 18 tháng tù tại bản án số 17 ngày 27/8/2008. Năm 2010 phạm tội trộm cắp tài sản bị Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá tuyên phạt 12 tháng tù giam tại bản án số 07 ngày 21/12/2010. Ngày 23/9/2011 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương. Ngày 24/12/2018 thực hiệnhành vi phạm tội vận  chuyển hàng cấm. Bị bắt tạm giữ từ ngày 24/12/2018 đến ngày 27/12/2018 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Huy T – sinh năm 1990

Địa chỉ: Tiểu khu 3, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình. (Có mặt).

- Người chứng kiến: Ông Trần Xuân K – Sinh năm 1956

Địa chỉ: Tiểu khu 2, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Quảng Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 22/12/2018, Võ Đức C trú tại tiểu khu 3, thị trấn Đ, huyện T gặp một người đàn ông không rõ tên tuổi và địa chỉ tại khu vực chợ Đ. Qua nói chuyện, C biết người này có pháo nên hỏi mua nhằm mục đích để đốt trong dịp Tết nguyên đán 2019. Sau khi trao đổi người đàn ông này đồng ý bán cho C 65 hộp pháo với giá 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng) đồng thời thống nhất thời gian, địa điểm giao pháo và thanh toán tiền. 

Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 24 tháng 12 năm 2018, Võ Đức C nhờ bạn là anh Lê Huy T ở cùng tiểu khu điều khiển xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, mang biển kiểm soát nước Lào: nn 5848 chở C đi vào huyện M chơi và mua thuốc bắc. Anh T đồng ý rồi điều khiển xe ô tô chở C đi. Khi đến khu vực cầu K, xã H, huyện M là địa điểm mà C và người đàn ông lạ mặt đã hẹn nhau trước đó, C bảo anh T quay đầu xe và dừng ở bên đường, lúc này anh T ngồi trên xe còn C đi xuống gặp người đàn ông lạ mặt và mua 65 hộp pháo chứa trong 5 bao tải với giá 20.000.000 đồng. Sau khi bốc số pháo lên xe, C bảo T điều khiển xe quay về thị trấn Đ. Khi đến địa phận tiểu khu 4 thị trấn Đ thì bị công an huyện Tuyên Hoá phát hiện bắt quả tang tạm giữ xe ô tô cùng toàn bộ tang vật là 65 hộp pháo, ngoài ra còn tạm giữ trên xe ô tô của Lê Huy T 08 loại vũ khí thô sơ gồm 03 tuýp kim loại, 03 dao tự chế, 01 gậy ba khúc kim loại và 01 gậy điện.

Quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của Võ Đức C, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hoá đã phát hiện và thu giữ 79 viên pháo khác.

Tại Bản kết luận giám định số: 102/GĐ-PC09 ngày 25/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 79 viên pháo thu giữ trong quá trình khám xét nơi ở của Võ Đức C gửi đi gám định là pháo nổ, khối lượng 0,14 kg, 65 hộp mẫu vật thu giữ trong quá trình bắt quả tang Võ Đức C vận chuyển gửi giám định đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi đốt có gây tiếng nổ). Tổng khối lượng: 108,9 kg.

Vật chứng vụ án: Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Tuyên Hoá đã thu giữ các vật chứng gồm:

- 79 (bảy mươi chín) viên pháo dạng hình cầu, nhiều màu sắc, trên mỗi viên có một dây dẫn, tổng khối lượng 0,14 kg. Sau khi lấy mẫu vật giám định số còn lại là 72 viên, tổng khối lượng 0,12kg đã được niêm phong.

- 65 (sáu mươi lăm) hộp pháo, trong đó:

- 48 (bốn mươi tám) hộp nhãn hiệu “DM VICTORY” mã ký hiệu “A8503 (A0398), khối lượng 78,9 kg, sau khi lấy mẫu vật giám định còn lại 47 hộp, khối lượng 77,3 kg đã được niêm phong.

- 17 (mười bảy) hộp nhãn hiệu “DM PRETTY SCENE” mã ký hiệu “A8504” khối lượng 30 kg, sau khi lấy mẫu vật giám định còn lại 16 hộp, khối lượng 28, 2 kg đã được niêm phong.

- 01 (một) xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, biển kiểm soát: nn 5848, màu sơn xám, số khung: KMHWP81 HP1U314708, số máy D4BHY059270.

- 02 (hai) tuýp kim loại dài 90cm, đường kính 2,5 cm.

- 01 (một) tuýp kim loại dài 87 cm, dường kính 03cm

- 01 ( một) dao tự chế dài 75 cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 52 cm

- 01 (một) dao tự chế dài 72 cm lưỡi dao bằng kim loại dài 50 cm.

- 01 (một) dao tự chế dài 28cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 15 cm.

- 01 (một) gậy ba khúc bằng kim loại dài 65 cm, đường kính bên rộng nhất 2, 3cm.

- 01 (một) gậy điện dài 48 cm.

Ngày 27/3/2019 công an huyện Tuyên Hoá đã ra quyết định xử lý vật chứng theo thủ tục hành chính đối với 79 viên pháo do Võ Đức C tàng trữ trái phép và 08 loại vũ khí thu giữ trên xe của Lê Huy T.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, biển kiểm soát nước Lào: nn 5848 do Lê Huy T sử dụng để vận chuyển pháo trái phép cho Võ Đức C, quá trình điều tra xác định T không liên quan đến hành vi vận chuyển pháo của C. Chiếc xe ô tô có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài, mang biển kiểm soát nước ngoài, cần có thời gian để xác minh, tiến hành xử lý đúng qui định. Vì vậy ngày 27/3/2019 Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Tuyên Hoá ban hành Công văn số 128/CQĐT tách hồ sơ để xử lý riêng.

Vật chứng còn lại gồm 63 hộp pháo, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc in chữ nước ngoài và hình pháo, khối lượng 105,5 kg được niêm phong trong 3 thùng giấy cát tông hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Tuyên Hoá. Hành vi của bị cáo Võ Đức C đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hoá làm rõ.

Bản Cáo trạng số: 23/CT-VKSTH-HS ngày 10 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Võ Đức C về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá phát biểu ý kiến giữ nguyên quan điểm truy tố và luận tội, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Võ Đức C phạm tội “Vận chuyển hàng cấm”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ Luật hình sự năm 2015: Xử phạt Võ Đức C bằng hình thức phạt tiền từ 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) đến 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Về xử lý vật chứng: Ngày 27/3/2019 Công an huyện Tuyên Hoá đã ra quyết định xử lý vật chứng theo thủ tục hành chính đối với 79 viên pháo do Võ Đức C tàng trữ trái phép và 08 loại vũ khí thu giữ trên xe của Lê Huy T, do đó không xem xét thêm.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, biển kiểm soát nước Lào: nn 5848 do Lê Huy T sử dụng để vận chuyển pháo trái phép cho Võ Đức C, quá trình điều tra xác định T không liên quan đến hành vi vận chuyển pháo của C. Chiếc xe ô tô có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài, mang biển kiểm soát nước ngoài, cần có thời gian để xác minh, tiên hành xử lý đúng qui định. Vì vậy ngày 27/3/2019 Cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Tuyên Hoá ban hành công văn số 128/CQĐT tách hồ sơ để xử lý sau. Do đó không xem xét.

Đối với số pháo Võ Đức C vận chuyển, Đề nghị Hội đồng xét xử :

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu huỷ 63 (sáu mươi ba) khối hình hộp chữ nhật, vỏ hộp giấy nhiều màu sắc, in chữ nước ngoài và hình pháo, khối lượng 105,5 kg được niêm phong trong 03 (ba) thùng giấy các tông. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tuyên Hoá.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Võ Đức C phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật nên không xem xét gì thêm.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Võ Đức C mặc dù là người nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ pháo là loại hàng hoá Nhà nước cấm sản xuất, kinh doanh, buôn bán, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành và sử dụng, là vật cấm có nguồn nguy hiểm cao độ, nhưng để có pháo sử dụng trong dịp Tết nguyên đán 2019 phục vụ nhu cầu cá nhân, bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2008 phạm tội phá huỷ công trình quan trọng về an ninh quốc gia. Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên phạt 18 tháng tù giam. Năm 2010 phạm tội: Trộm cắp tài sản. Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá tuyên phạt 12 tháng tù giam tại bản án số 07 ngày 21/12/2010. Ngày 23/9/2011 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương nhưng bị cáo không chịu khó làm ăn lương thiện và rèn luyên bản thân để ngày càng tiến bộ mà vẫn tiếp tục vi phạm pháp luật, đã có hành vi vận chuyển hàng cấm. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, tài liệu về thời gian, địa điểm, số lượng hàng cấm là 63 hộp pháo có khối lượng 105,5 kg mà bị cáo đã vận chuyển, ý kiến của Kiểm sát viên. Do đó có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Võ Đức C đã phạm tội “Vận chuyển hàng cấm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đúng như Bản cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Võ Đức C không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

[5] Về mức án mà Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá đề nghị xử phạt bị cáo Võ Đức C từ 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng) đến 350.000.000 đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tội “Vận chuyển hàng cấm”.

Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là cố ý trực tiếp vận chuyển pháo trên xe ô tô của Lê Huy T đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với các loại hàng cấm. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm trước pháp luật và cần áp dụng điểm g khoản 2 Điều 191 Bộ luật hình sự để có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cần xem xét cho bị cáo quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình. Tại phiên toà bị cáo xin được xử phạt bằng hình thức phạt tiền, để có điều kiện chăm sóc mẹ đẻ thường xuyên bị ốm đau, bệnh tật. Do đó, Hội đồng xét xử cần chấp nhận mức án của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá đề nghị và cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo bằng hình thức phạt tiền cũng đúng với chính sách nhân đạo của pháp luật.

Liên quan trong vụ án này có người đàn ông lạ mặt đã bán pháo cho Võ Đức C dọc đường đi nhưng do bị cáo không biết rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể và quá trình điều tra không xác định được người đó là ai, ở đâu nên không có căn cứ để xử lý. Đối với Lê Huy T là người lái xe ô tô đi cùng với Võ Đức C nhưng quá trình Võ Đức C mua pháo và vận chuyển pháo lên xe Lê Huy T hoàn toàn không biết nên không xem xét trách nhiệm hình sự đối với Lê Huy T. Nhưng tại phiên toà Hội đồng xét xử cũng cần nhắc nhở đối với Lê Huy T để rút kinh nghiệm trong việc việc sử dụng xe ô tô vận chuyển hàng hoá, tránh sự vô tình tiếp tay cho kẻ phạm tội và ngăn ngừa tội phạm nói chung.

[6] Về vật chứng vụ án: Ngày 27/3/2019 Công an huyện Tuyên Hoá đã ra quyết định xử lý vật chứng theo thủ tục hành chính đối với 79 viên pháo do Võ Đức C tàng trữ trái phép và 08 loại vũ khí thu giữ trên xe của Lê Huy T. Hội đồng xét xử xét thấy việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra là đúng pháp luật nên không xem xét gì thêm.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu HYUNDAI, biển kiểm soát nước Lào: nn 5848 do Lê Huy T sử dụng để vận chuyển pháo trái phép cho Võ Đức C, quá trình điều tra xác định T không liên quan đến hành vi vận chuyển pháo của C. Chiếc xe ô tô có nguồn gốc xuất xứ từ nước ngoài, mang biển kiểm soát nước ngoài, cần có thời gian để xác minh, tiến hành xử lý đúng qui định. Vì vậy ngày 27/3/2019 Cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Tuyên Hoá đã ban hành công văn số 128/CQĐT tách hồ sơ để xử lý sau. Hội đồng xét xử xét thấy việc tách hồ sơ để xác minh, làm rõ của Cơ quan điều tra là phù hợp và đúng pháp luật. Do đó không xem xét thêm.

- Đối với 63 (sáu mươi ba) hộp pháo, khối lượng 105,5 kg được niêm phong trong 03 (ba) hộp giấy cát tông, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành cần áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu huỷ.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Võ Đức C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 191, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Võ Đức C phạm tội "Vận chuyển hàng cấm".

- Về hình phạt: Xử phạt Võ Đức C 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

2. Vật chứng vụ án:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu huỷ 63 (sáu mươi ba) hộp pháo, khối lượng 105,5 kg (một trăm linh năm phẩy năm ki lô gam) được niêm phong trong 03 (ba) hộp giấy cát tông, vỏ hộp có nhiều màu sắc in chữ nước ngoài và hình pháo.

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Võ Đức C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuyên bố bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/4 /2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về