Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM TÂN, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 21/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số 55/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 3 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc S, sinh năm 1991 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã Q, huyện D, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Anh Ngô Trọng V, sinh năm 1993 (vắng mặt).

Địa chỉ: Khu phố E, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18/3/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc S trình bày:

Chị và anh Ngô Trọng V đăng ký kết hôn vào năm 2014 tại UBND thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng từ năm 2017 vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, anh V sử dụng trái phép chất ma túy và phải cam kết cai nghiện tại địa phương, từ đó anh V không lo làm ăn mà thường xuyên đánh đập chị, đã có lần anh V mua xăng về đốt nhà của gia đình chị và lấy tài sản của chị sử dụng riêng. Từ tháng 7/2018 cho đến nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Hiện tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Trong quá trình sống chung chị và anh V có 01 con chung là Ngô Lê Thanh N, sinh ngày 09/01/2015, khi ly hôn, chị có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh V cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Ngô Trọng V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và các văn bản tố tụng khác nhưng anh V không đến Tòa án để làm việc, tham dự phiên tòa cũng như cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân đã tiến hành thụ lý, chuẩn bị xét xử và xét xử vụ án đúng trình tự thủ tục luật định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng khác, nguyên đơn đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành theo quy định.

- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ căn cứ để xác định chị Lê Thị Ngọc S và anh Ngô Trọng V tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn năm 2014 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian sống chung thì anh chị có nhiều mâu thuẫn, tình trạng hôn nhân giữa chị S và anh V đã trầm trọng, không thể hàn gắn được, chị S và anh V đã không còn quan tâm, chăm sóc nhau, anh V đã có hành vi bạo lực gia đình nên hiện nay chị S không còn sống chung với anh V nữa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Sương; về con chung giao cháu Ngô Lê Thanh N, sinh ngày 09/01/2015 cho chị Strực tiếp nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung chị S không yêu cầu nên không đề nghị xem xét; về án phí, đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Tân tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về quan hệ pháp luật có tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: HĐXX thấy rằng đây là tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Quá trình giải quyết vụ án anh Ngô Trọng V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo quy định.

Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lê Thị Ngọc S và anh Ngô Trọng V tự nguyện tìm hiểu, sống chung và đăng ký kết hôn vào ngày 17/4/2014 tại UBND thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Thuận đúng theo quy định nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của nguyên đơn thì trong cuộc sống chung vợ chồng giữa chị Svà anh V thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh V không quan tâm, chăm sóc cho vợ, con. Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện công việc chung trong gia đình”. Nhưng từ năm 2018 cho đến nay, chị Svà anh V không còn sống chung với nhau nữa, không quan tâm, thương yêu, chăm sóc nhau. Hơn nữa, anh V sử dụng ma túy, thường xuyên đánh đập chị S, đã có lần anh V dùng xăng đốt nhà và bị Cơ quan Công an xử lý. Hành vi của anh V đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Ngô Trọng V đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh V không cung cấp các tài liệu, chứng cứ; không đến Tòa án theo giấy triệu tập để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; cũng như không có biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng; như vậy, anh V đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị S và anh V đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Sương.

[2] Về con chung: Chị S và anh V có 01 con chung là Ngô Lê Thanh N, sinh ngày 09/01/2015, khi ly hôn, chị S có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung vì hiện nay chị đang làm việc tại Công ty giầy da tại Bà Rịa – Vũng Tàu nên có thu nhập ổn định đủ khả năng để nuôi con và từ trước cho đến nay anh V không quan tâm, chăm sóc con cái. Từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa thì chị là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Ngân. Quá trình giải quyết vụ án anh V không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình về việc nuôi con. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ nguyện vọng, yêu cầu của chị Lê Thị Ngọc S, giao cháu Ngô Lê Thanh N, sinh ngày 09/01/2015 cho chị S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Chị S không yêu cầu cấp dưỡng tiền nuôi con nên HĐXX không xem xét.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ngọc S.

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Ngọc S và anh Ngô Trọng V.

- Về con chung: Giao cháu Ngô Lê Thanh N, sinh ngày 09/01/2015 cho chị Lê Thị Ngọc S trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh V không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Ngô Trọng V có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc S phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0024700 ngày 20/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Tân.

Án xử công khai, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HNGĐ-ST ngày 29/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:21/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Tân - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về