Bản án 21/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 21/2018/HS-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Trần Trung H, sinh ngày: 09/11/1991 tại huyện T, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn P, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức L và bà Hoàng Thị D; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Có một tiền án, ngày 28/10/2016 phạm tội “trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 06 tháng tù tại bản án số 07/2018/HSST ngày 07/3/2018, đến ngày 07/6/2018 chấp hành xong hình phạt; nhân thân: Sinh ra và lớn lên học đến lớp 9/12 thì bỏ học, năm 2013 bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc thời hạn 24 tháng về hành vi “cố ý gây thương tích”, ngày 15/2/2015 chấp hành xong hình phạt, ngày 28/10/2016 phạm tội “trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 06 tháng tù tại bản án số 07/2018/HSST ngày 07/3/2018, ngày 07/6/2018 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương, ngày 14/7/2018 tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; bị bắt tạm giam ngày 18/7/2018; có mặt tại phiên tòa.

2. Lương Thế V, sinh ngày: 07/4/1997 tại huyện T, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: Thôn X, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Khắc T và bà Lê Thị L; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Sinh ra và lớn lên học đến lớp 9/12 thì bỏ học ở nhà, ngày 27/5/2014 phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tại bản án số 21/2014/HSST ngày 27/5/2014, ngày 27/5/2015 chấp hành xong hình phạt, ngày 14/7/2018 thực hiện hành vi phạm tội trộm cắp tài sản; cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 18 tháng 7 năm 2018; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Trương Văn H, sinh năm 1985

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện T, tỉnh Quảng Bình "có mặt"

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Viết H, sinh năm 1984

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện T, tỉnh Quảng Bình "có mặt"

2. Anh Tưởng Thanh D, sinh năm 1993

Địa chỉ: Thôn V, xã T, huyện Q, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

3. Bà Lê Thị L, sinh năm 1958

Địa chỉ: Thôn X, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình "có mặt"

4. Anh Phạm Xuân T, sinh năm 1981

Địa chỉ: Tổ dân phố 7, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

- Người làm chứng:

1. Chị Trương Thị Hồ S, sinh năm 1989

Địa chỉ: Thôn S, xã C, huyện T, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

2. Chị Phạm Thị V, sinh năm 1988

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện T, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

3. Anh Nguyễn Viết Vương, sinh năm 1987

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện T, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

4. Anh Phan Thanh Tùng, sinh năm 1985

Địa chỉ: Thôn S, xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình "vắng mặt"

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 14/7/2018 Trần Trung H, trú tại thôn P, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình rủ Lương Thế V, trú tại thôn X, xã V, huyện T, tỉnh Quảng Bình đi lấy trộm tài sản, V đồng ý. Lúc này Lương Thế V điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, số loại Sirius, màu sơn trắng, đen, BKS 73 E1 - 018.05 chở H đi vào xã C. Khi đến thôn S, xã C phát hiện có một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu sơn đỏ, đen, BKS 73 D1 - 182.71 của anh Trương Văn H dựng trước sân nhà của chị Trương Thị Hồ S tại thôn S, xã C, lúc này V vào trong quán để mua nước uống và cảnh giới, còn H đi đến chổ chiếc xe mô tô đang dựng ở sân nhà của chị S rồi dùng vam phá khóa tra vào ổ khóa điện, khi mở được khóa H điều khiển xe mô tô trộm được, còn Lương Thế V điều khiển xe của mình đi theo đường tỉnh lộ 559 từ xã C rồi về thị xã B, trên đường đi H dừng xe dùng vam phá khóa mở cốp xe phát hiện có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galayxy J7, màu trắng bạc, H lấy cất vào túi quần nhằm chiếm đoạt riêng không cho V biết rồi tiếp tục điều khiển xe về thị xã B bán chiếc xe mô tô cho một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể với giá 3.000.000đ, số tiền bán xe H chia cho Lương Thế V 1.500.000đ, số tiền còn lại H tiêu xài cá nhân hết, còn máy điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galayxy J7, màu trắng bạc, ngày 15/7/2018 H nhờ Trần Minh S chở đến cửa hàng điện thoại di động Thúy Hằng ở thị xã B bán cho anh Phạm Xuân T với giá 1.600.000đ, số tiền này H tiêu xài cá nhân hết. Còn Lương Thế V, số tiền được H chia, V tiêu xài cá nhân hết 730.000đ, còn 770.000đ, sau khi bị phát hiện V tự giao nộp cho Cơ quan điều tra.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 09 ngày 18/07/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện T xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại sirius, màu sơn đỏ, đen, BKS 73D1 - 182.71 có giá trị tại thời điểm mất là 19.950.000đ (mười chín triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng chẵn); chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J7 có giá trị tại thời điểm mất là 4.312.000đ (bốn triệu ba trăm mười hai nghìn đồng chẵn). Tổng giá trị thiệt hại là 24.262.000đ (hai mươi bốn triệu, hai trăm sáu mươi hai nghìn đồng chẵn).

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hoá đã thu giữ:

- Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại sirius, màu sơn trắng, đen, BKS 73 E1 - 018.05, số khung RLCS 5C640BY524514, số máy 5C64 - 524453.

- Một phong bì đã được niêm phong bên trong có số tiền 770.000đ tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành.

- Một điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galayxy J7, màu trắng bạc, số IMEL 1, 359752070806487, số IMEL 2, 359753070806485.

- Một điện thoại di động nhãn hiệu Hotwav, màu đen xanh, IMEL 1 352777084156972, số IMEL 2 352777084156980, máy có gắn thẻ sim mạng Vinaphone, số seri 89840.20001.05963.199913.

- Một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu đen, số IMEL 013064006018643, trong máy có gắn thẻ sim của mạng Viettel, số seri 8984.0480.0002.0222.262.

- Một thanh kim loại, hình trụ tròn, dạng hình chử L, một cạnh dài 15cm, một cạnh dài 4 cm, đường kính 0,8 cm, hai đầu có cạnh hình vuông.

- Một ống kim loại hình trụ tròn, dài 2,5 cm, một đầu có đường kính 01 cm, bên trong có cạnh hình vuông, một đầu có đường kính 1,2 cm, bên trong có cạnh hình lục giác.

- Một thanh kim loại dài 7 cm, một đầu có hình lục giác, đường kính 0,8 cm, một đầu được mài dẹp có bản rộng 0,8 cm.

- Một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Tưởng Thanh Dưỡng.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra Lương Thế V đã tự nguyện bồi thường cho bị hại là anh Trương Văn H số tiền 10.000.000đ, số tiền còn lại 9.950.000đ anh Trương Văn H yêu cầu Trần Trung H phải bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số: 20/CT-VKSTH-HS ngày 21/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Trần Trung H và Lương Thế V về tội “trộm cắp tài sản” theo quy đinh tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá phát biểu lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Trung H từ 15 đến 18 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Lương Thế V từ 09 đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự buộc Trần Trung H phải bồi thường cho anh Trương Văn H số tiền 9.950.000 đồng. Đề nghị xử lý vật chứng và buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Trần Trung H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý và bảo vệ tài sản của người bị hại, Trần Trung H và Lương Thế V đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Sirius, màu sơn đỏ, đen, BKS 73D1 - 182.71 và một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galayxy J7, màu trắng bạc của anh Trương Văn H rồi đưa đi tiêu thụ bán lấy tiền. Tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị tại thời điểm mất là 24.262.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, tài liệu về thời gian, địa điểm, loại tài sản, giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt, ý kiến của Kiểm sát viên. Do đó đã đủ cơ sở để khẳng định, bị cáo Trần Trung H và Lương Thế V phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy đinh tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự đúng như bản Cáo trạng và Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hoá.

[3] Hội đồng xét xử nhận định hành vi của bị cáo Trần Trung H và Lương Thế V đã cố ý trực tiếp chiếm đoạt tài sản của anh Trương Văn H đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội cần được xử lý nghiêm, vì vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự để lên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo gây ra.

Đối với Trần Trung H là người khởi xướng đồng thời là người thực hiện hành vi trộm cắp tích cực. Bị cáo đã có thời gian đưa vào cơ sở giáo dục và đã bị xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản tại bản án số 07/2018/HSST ngày 07/3/2018, ngày 07/6/2018 chấp hành xong hình phạt đến ngày 14/7/2018 tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vì vậy bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, cần áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Đối với Lương Thế V với vai trò đồng phạm đơn giản, canh gác cho Trần Trung H thực hiện hành vi trộm, là người giúp sức.

Tuy nhiên Hội đồng xét xử cần xem xét cho các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà đã khai báo thành khẩn, đối với Lương Thế V đã tự bồi thường cho người bị hại số tiền 10.000.000 đồng để khắc phục hậu quả. Vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với Trần Trung H và áp dụng điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS đối với Lương Thế V để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo

[4] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo chiếm đoạt tài sản của anh Trương Văn H phải có trách nhiệm bồi thường. Giá trị tài sản là chiếc xe mô tô được định giá 19.950.000 đồng, Lương Thế V đã bồi thường 10.000.000 đồng, số tiền còn lại 9.950.000 đồng buộc Trần Trung H bồi thường đủ. Vì vần cần áp dụng Điều 48 BLHS, Điều 584, 589 BLDS buộc Trần Trung H phải bồi thường cho anh Trương Văn H số tiền 9.950.000 đồng.

[5] Về vật chứng vụ án: Sau khi xác định chủ sở hữu, ngày 14/8/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuyên Hoá đã trả lại cho anh Trương Văn H chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galayxy J7, màu trắng bạc. Việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra đảm bảo theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại sirius, màu sơn trắng, đen, BKS 73 E1 - 018.05, số khung RLCS 5C640BY524514, số máy 5C64 - 524453; một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Tưởng Thanh D; một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hotwav, màu đen xanh, IMEL 1 352777084156972, số IMEL 2 352777084156980, máy có gắn thẻ sim mạng Vinaphone, số seri 89840.20001.05963.199913; một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu đen, số IMEL 013064006018643, trong máy có gắn thẻ sim của mạng Viettel, số seri 8984.0480.0002.0222.262. Đây là phương tiện các bị cáo sử dụng liên lạc và phương tiện đi thực hiện hành vi phạm tội cần phải tịch thu sung công, nên áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu sung công.

Đối với một thanh kim loại hình trụ tròn, dạng hình chữ L, một cạnh dài 15 cm, một cạnh dài 4 cm, đường kính 0,8 cm, hai đầu có cạnh hình vuông; một ống kim loại hình trụ tròn, dài 2,5 cm, một đầu có đường kính 01 cm, bên trong có cạnh hình vuông, một đầu có đường kính 1,2 cm, bên trong có cạnh hình lục giác; một thanh kim loại dài 7 cm, một đầu có hình lục giác đường kính 0,8 cm, một đầu được mài dẹp có bản rộng 0,8 cm. Đây là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy.

Đối với một phong bì đã được niêm phong bên trong có số tiền 770.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam đang lưu hành của Lương Thế V được H bán tài sản trộm cắp chia cho V và V nộp lại nay V đã tự nguyện bồi thường theo tài sản định giá nên cần trả lại cho bị cáo V là phù hợp, cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS để trả lại cho Lương Thế V.

Trong vụ án này có Phạm Xuân T là người mua chiếc điện thoại di động SAMSUNG Galayxy J7. Trần Minh S là người chở H đi bán điện thoại di động nhưng T và S không biết tài sản đó là do trộm cắp mà có, nên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuyên Hóa không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Phạm Xuân T và Trần Minh S.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Trần Trung H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Trung H và Lương Thế V phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

1. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Trần Trung H 15 (mười lăm) tháng tù, thời gian tính từ ngày tạm giam 18/7/2018, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày theo quyết định của Hội đồng xét xử.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt Lương Thế V 09 (chín) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 584, 589 Bộ luật dân sự buộc Trần Trung H bồi thường cho anh Trương Văn H số tiền 9.950.000đ (chín triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án đến khi thi hành xong hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy của Luật Thi hành án dân sự.

3. Vật chứng vụ án:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu sung công tài sản gồm: Một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại sirius, màu sơn trắng, đen, BKS 73 E1 - 018.05, số khung RLCS 5C640BY524514, số máy 5C64 - 524453; một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy mang tên Tưởng Thanh D; một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Hotwav, màu đen xanh, IMEL 1 352777084156972, số IMEL 2 352777084156980, máy có gắn thẻ sim mạng Vinaphone, số seri 89840.20001.05963.199913; một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu đen, số IMEL 013064006018643, trong máy có gắn thẻ sim của mạng Viettel, số seri 8984.0480.0002.0222.262.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy gồm: Một thanh kim loại hình trụ tròn, dạng hình chữ L, một cạnh dài 15 cm, một cạnh dài 4 cm, đường kính 0,8 cm, hai đầu có cạnh hình vuông; một ống kim loại hình trụ tròn, dài 2,5 cm, một đầu có đường kính 01 cm, bên trong có cạnh hình vuông, một đầu có đường kính 1,2 cm, bên trong có cạnh hình lục giác; một thanh kim loại dài 7 cm, một đầu có hình lục giác đường kính 0,8 cm, một đầu được mài dẹp có bản rộng 0,8 cm.

- Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS trả lại cho Lương Thế V số tiền 770.000đ (bảy trăm bảy mươi nghìn đồng) đã được niêm phong trong phong bì. 

4. Về án phí: Bị cáo Trần Trung H và Lương Thế V mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Trung H phải chịu 497.500đ (bốn trăm chín mươi bảy nghìn năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuyên bố bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 25/10/2018. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, thời hạn trên tính từ ngay nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HS-ST ngày 25/10/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về