Bản án 21/2018/HS-ST ngày 23/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 21/2018/HS-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 08 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2018/TLST-HS ngày 13 tháng08 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn số 22/2018/QĐXXST-HS, ngày 13/8/2018 đối với bị cáo:

Thạch Văn L, sinh năm: 1997; Nơi cư trú: ấp A, xã B, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thạch X (s) và bà Thạch Thị Tuyết N (s); Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 03/8/2018.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Xuân T, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

Người bị hại: Ngô Minh Q, sinh năm: 1998 (có mặt)

Nơi cư trú tại: ấp M, xã N, thị xã P, tỉnh Sóc Trăng.

Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1/ Ong Phiền H, sinh năm 1981 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khóm D, phường E, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng.

2/ Trịnh Tú B, sinh năm 1992 (vắng mặt)

Nơi cư trú: ấp A, xã B, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng.

Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Lâm Diệp P, cán bộ Ủy ban nhân dân Phường 1 thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng; (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 08/6/2018 Thạch Văn L đi tìm bạn là Ngô Minh Q đang làm thuê cho Ong Phiền H tại khóm Đ, phường E, thị xã C, tỉnh Sóc Trăng. Khi L đến chòi giữ tôm của Ong Phiền H thì gặp Ngô Minh Q và Trịnh Tú B, Thạch Văn L vào chòi chơi được một lúc thì thấy Q lấy điện thoại Oppo A37 màu xám vàng sạc pin để trên cái loa cặp vách chòi và đi cho tôm ăn còn Trịnh Tú B nằm ngủ trên võng. Thấy không có người trông coi, Thạch Văn L nảy sinh ý định lấy trộm chiếc điện thoại Oppo A37 để bán lấy tiền, quan sát xung quanh không có ai khác. L liền lấy chiếc điện thoại Oppo A37 bỏ vào trong người cất giấu, khoảng 15 phút sau Ngô Minh Q về chòi, phát hiện chiếc điện thoại Oppo A37 đang sạc pin bị mất, Q tìm xung quanh không thấy, Q hỏi L “có lấy điện thoại không?”, L trả lời “không có lấy”, thấy vậy Trịnh Tú B điện thoại cho Ong Phiền H và báo Công an Phường E, sau đó Công an đến chòi thì phát hiện L đang cất giấu điện thoại Oppo A37 trong người nên lập biên bản bắt quả tang Thạch Văn L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 15/KL-HĐĐGTS, ngày 08/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Châu kết luận: Chiếc điện thoại Oppo A37 trị giá 2.632.000 đồng (Hai triệu sáu trăm ba mươi hai nghìn đồng)

Tại phiên tòa hôm nay, Thạch Văn L đã thừa nhận hành vi lén lút lấy điện thoại Oppo A37 của Ngô Minh Q.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01/QĐ-VKSVC ngày 08/8/2018 Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu để xét xử bị cáo: Thạch Văn L về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự 2015).

Tại phiên tòa, đại diện viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng trong phần tranh luận đã viện dẫn khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 do bị cáo thực hiện hành vi lén lút, lấy điện thoại bị hại Q trị giá 2.632.000 đồng nhằm mục đích đem bán lấy tiền tiêu xài đã hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, nên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Thạch Văn L về tội trộm cắp tài sản. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo: Thạch Văn L từ 03 đến 06 tháng tù về trộm cắp tài sản. 

Người bào chữa cho bị cáo: thống nhất về tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ như quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 01. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên đề nghị chủ tọa áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 để Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo Thạch Văn L thống nhất với lời trình bày của người bào chữa và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về giúp đỡ gia đình.

Tại phiên tòa, bị hại Ngô Minh Q thống nhất với nội dung của quyết định truy tố, ý kiến của vị Kiểm sát viên và lời nhận tội của bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại chiếc điện thoại Oppo A37 của mình nên không có yêu cầu khác; Về trách nhiệm hình sự: yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa như sau:

[1].Về tố tụng:

Về hành vi, quyết định áp dụng thủ tục rút gọn của Cơ quan điều tra Công an thị xã Vĩnh Châu, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra họ đã có lời khai đầy đủ và rõ ràng. Đồng thời, tại phiên tòa vị Kiểm sát viên, người bào chữa cho bị cáo và bị cáo, bị hại cũng đề nghị xét xử vắng mặt những người nêu trên. Xét thấy sự vắng mặt của những người nêu trên không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Do đó, căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người nêu trên theo quy định của pháp luật.

[2].Về nội dung:

Qúa trình điều tra cũng như tranh tụng tại phiên tòa hôm nay bị cáo Thạch Văn L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh hiện trường, lời khai của bị hại cũng như các chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ cơ sở kết luận vào khoảng 12 giờ ngày 08/6/2018 bị cáo đã lợi dụng sơ hở của bị hại Q lén lút chiếm lấy rồi giấu điện thoại Oppo A37. Bị cáo chỉ vì ham muốn lấy tiền tiêu xài cá nhân, hành vi của bị cáo Thạch Văn L đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian hợp lý để giáo dục bị cáo và làm gương cho người khác.

[3].Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự; Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào; Tài sản đã được trả lại cho bị hại; Bị cáo phạm tội lần đầu và

thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. S khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo là người dân tộc khmer, trình độ văn hóa thấp nên nhận thức pháp luật hạn chế. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.

Tại phiên tòa xét thấy lời đề nghị của vị Kiểm sát viên là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tội danh: Tuyên bố bị cáo Thạch Văn L, phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

2. Hình phạt: Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Thạch Văn L: 03 (Ba) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 03/8/2018.

3. Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu là 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

Báo cho bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

“Trường hợp bản án, quyết được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014)”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HS-ST ngày 23/08/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:21/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về