Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 20/04/2018 về tranh chấp ly hôn, con chung, tài sản chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 21/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG, TÀI SẢN CHUNG

Ngày 20/4/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 53/2017/TLST- HNGĐ ngày 05/01/2018 về việc: “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 01/3/2018 và các Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2018/QĐST- HNGĐ ngày 16/3/2018; số 15/2018/QĐST- HNGĐ ngày 03/4/2018 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Anh Lê Huy T, sinh năm 1974

Trú tại: Bồ Đề -Long Biên- Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa)

* Bị đơn: Chị Nguyễn Hồng L sinh năm 1979

HKTT: phường Trần Hưng Đạo- Hoàn Kiếm- Hà Nội

Trú tại: Bồ Đề -Long Biên –Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Lê Huy T trình bày:

Anh và chị Nguyễn Hồng L đăng ký kết hôn năm 2002 tại UBND phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống với nhau tại địa chỉ Nguyễn Sơn- Bồ Đề - Long Biên- Hà Nội Anh chị chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2015 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống, thường xuyên cãi vã. Bản thân chị L không chăm lo cho gia đình, nợ nần rất nhiều khiến chủ nợ đến nhà để đòi nợ, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của gia đình anh. Anh và gia đình đã phải trả nợ nhiều lần, số tiền trả nợ thay chị L lên đến hơn 01 tỷ đồng nhưng đến nay chị L vẫn còn nợ nần mà không nói rõ cho anh là tại sao lại nợ tiền, tiền vay nợ đã dùng vào việc gì… Anh có khuyên nhủ chị L nhiều lần nhưng chị L không nghe. Anh chị đã cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không được. Khi anh làm đơn ly hôn, anh có nói với chị L nhưng chị L không về, lấy lý do là đang ở nay đây mai đó, không ổn định. Anh và chị L đã ly thân với nhau từ năm 2016, mặc dù ở chung một nhà nhưng mỗi người một phòng riêng, không ai quan tâm đến ai. Đến tháng 7/2017 thì hai vợ chồng mâu thuẫn trở nên trầm trọng. Khoảng tháng 10, tháng 11năm 2017 thì chị L tự ý bỏ nhà đi. Chị L vẫn gọi điện thoại về hỏi thăm con cái nhưng không nói rõ chị đang ở đâu. Đến nay, anh thấy cuộc sống chung của anh chị không còn hạnh phúc, anh không thể tiếp tục chung sống với chị L được nữa nên xin được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Lê L Tr sinh ngày 21/07/2002 và cháu Lê Huy H sinh ngày 18/2/2008. Sau khi ly hôn, anh T muốn nuôi dưỡng cả hai con và không yêu cầu chị L đóng góp tiền nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn – Chị Nguyễn Hồng L : Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập chị L hợp lệ nhưng chị L đều vắng mặt không có lý do.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về thẩm quyền: Toà án nhân dân quận Long Biên đã thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

- Thẩm phán lập hồ sơ, xác minh, thu thập chứng cứ, tiến hành giao các văn bản tố tụng và tiến hành trình tự, thủ tục tại phiên toà đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng tại phiên toà đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn không đến Tòa án để làm việc mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng vi phạm các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 19, 51, khoản 2 điều 56, điều 81, 82, 83,84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Nghị quyết 326/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh T, giao con chung cho anh T nuôi dưỡng, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với chị L, tài sản không xem xét giải quyết và anh T phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, HĐXX nhận định:

* Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu chị Nguyễn Hồng L đến Tòa án để giải quyết việc ly hôn với anh T nhưng chị L vắng mặt không có lý do. Căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án xét xử vắng mặt chị L là đúng quy định của pháp luật.

* Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị L đăng ký kết hôn năm 2002 tại UBND phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Anh chị chung sống hạnh phúc với nhau đến năm 2015 thì nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không hợp nhau, bất đồng trong quan điểm sống. Bản thân chị L nợ nần rất nhiều khiến chủ nợ đến nhà để đòi nợ, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của cả gia đình anh. Anh T và gia đình đã phải trả nợ thay cho chị L nhiều lần. Bản thân hai anh chị cũng ly thân với nhau từ năm 2016, mỗi người một phòng riêng dù vẫn ở chung một nhà, không ai quan tâm đến ai. Đến tháng 7/2017 thì mâu thuẫn vợ chồng trở nên trầm trọng. Khoảng thời gian tháng 10, tháng 11 năm 2017 thì chị L tự ý bỏ nhà đi. Thỉnh thoảng chị L có gọi điện thoại về nói chuyện với các con nhưng cũng không nói cụ thể hiện nay chị đang ở đâu. Nay, anh T không còn tình cảm vợ chồng gì với chị L nữa và kiên quyết ly hôn. Hội đồng xét xử thấy rằng: Mâu thuẫn vợ chồng giữa anh T và chị L đã căng thẳng , trầm trọng kéo dài, cuộc sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T đối với chị L.

* Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Lê L Tr sinh ngày 21/07/2002 và cháu Lê Huy H sinh ngày 18/2/2008. Hiện nay, cả hai cháu đang ở với anh T. Để đảm bảo việc ăn ở, học hành của các cháu không bị xáo trộn, anh T cũng có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả hai con nên Hội đồng xét xử thấy rằng cần để hai cháu cho anh T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh T không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

* Về tài sản chung và công nợ: Anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

* Về án phí: Anh T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lê Huy T đối với chị Nguyễn Hồng L. Anh T được ly hôn với chị L.

2. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Lê L Tr sinh ngày

21/07/2002 và cháu Lê Huy H sinh ngày 18/2/2008. Giao cho anh T được trực tiếpchăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung của anh chị. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với chị L cho đến khi cháu Tr, cháu H đủ 18 tuổi hoặc đến khi có yêu cầu mới.

Không ai được ngăn cản việc gặp gỡ, thăm nom và chăm sóc con chung.

3. Về tài sản chung và công nợ: Anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

4. Về án phí: Anh T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Anh T đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0006487 ngày 08/1/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên. Nay, chuyển thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm.

Anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 20/04/2018 về tranh chấp ly hôn, con chung, tài sản chung

Số hiệu:21/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về