Bản án 211/2021/HSST ngày 30/08/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 211/2021/HSST NGÀY 30/08/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 8 năm 2021 tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 188/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2021 theo Qết định đưa vụ án ra xét xử số 204/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Bùi Xuân Đ - Sinh ngày: 02/10/1994, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 24, khu 2B, phường C, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: Lớp 08/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Bùi Huy P (Đã chết) và bà: Đoàn Thị T; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Trần A - Sinh ngày: 19/12/1996, tại thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 80B, khu 5, phường B, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: Lớp 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Hoàng L (Đã chết) và bà Hoàng Kim T; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Giáp Minh Đ - sinh năm 1989; Địa chỉ: Tổ 11B, khu 3, phường H, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử án vắng mặt).

- Người có Qền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Anh Bùi Nguyễn Hải Q - Sinh ngày 17/12/2006; Trú tại: Tổ 33, khu 3, phường C, TP.Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh – vắng mặt, có đơn xin xử án vắng mặt.

Người giám hộ cho anh Q: Bà Trần Thị Kim L – sinh năm 1969; Địa chỉ: Tổ 33, khu 3, phường C, TP. Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, có đơn xin xử án vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hàn Vũ Đ – sinh năm 1994; Vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Tiến H - sinh năm 1998; Vắng mặt.

3. Chị Vũ Thị Thanh T- Sinh năm 1981; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ ngày 24/5/2021, Bùi Xuân Đ, Trần A và Bùi Nguyễn Hải Q (sinh ngày 17/12/2006) rủ nhau đi bộ lang thang từ khu vực Công viên Lán Bè, thuộc tổ 54, khu 4, phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long đi các tuyến đường thuộc địa bàn thành phố Hạ Long để tìm sơ hở trộm cắp tài sản. Đến khoảng 03 giờ ngày 25/5/2021, cả bọn khi đến khu vực nhà nghỉ “H” thuộc tổ 2, khu 4A, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, thì Q phát hiện chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Vios, màu sơn trắng, biển kiểm soát 14A – 329., của anh Giáp Minh Đ đang đỗ dưới lòng đường, đầu xe hướng vào phía nhà nghỉ H, đuôi xe hướng ra đường, hai gương chiếu hậu của xe mở, xung quanh không có ai trông coi. Q nghĩ là xe không khóa nên nói với A và Đ đứng ngoài quan sát, cảnh giới để Q trực tiếp mở cửa lục soát đồ trên xe, A và Đ đồng ý. Sau đó, Q đi đến chiếc ô tô trên mở cửa ghế phụ phía trước vào trong xe lục soát đồ đạc, lấy 01 (một) chiếc máy tính bảng, nhãn hiệu Samsung, Tab A Plus 8.0, dung lượng 32GB, vỏ màu ghi, có ốp lưng bảo vệ màu xanh, chất liệu giả da để trong chiếc ba lô màu đen đặt ở hàng ghế phía sau, sau đó đi ra và đóng cửa xe lại rồi đi đến chỗ Đ và A. Q đã đưa cho Đ chiếc máy tính bảng cất vào túi xách. Sau đó, Đ, Q, A mang theo chiếc máy tính bảng quay về công viên Lán Bè ngủ. Trên đường đi đến khu vực Hồ Cô Tiên thuộc tổ 2, khu 2A, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, Đ tháo ốp lưng bảo vệ máy tính bảng vất xuống hồ. Đến khoảng 08 giờ 30 phút cùng ngày, Đ và A mang chiếc máy tính bảng đến cửa hàng V, địa chỉ tại số 74, đường C, phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long bán. Tại cửa hàng, A đứng bên ngoài còn Đ vào cửa hàng gặp anh Hàn Vũ Đ (sinh năm 1994, cư trú tại tổ 34, khu 3, phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long) là chủ cửa hàng V và nói với anh Đ chiếc máy tính của mình cần tiền nên bán, Đ và anh Đ đã thỏa thuận về giá cả, anh Đ đồng ý mua chiếc máy tính trên với giá 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Số tiền này Đ, A và Q sử dụng để chi tiêu cá nhân hết. Ngày 26/5/2021 anh Giáp Văn Đ có đơn trình báo về việc bị mất 01 chiếc máy tính bảng, nhãn hiệu Samsung, Tab A Plus 8.0, dung lượng 32GB, vỏ màu ghi, có ốp lưng bảo vệ màu xanh, để ở trong xe ô tô BKS 14A- 329.06. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 27/5/2021 khi Q, Đ và A tiếp tục đi bộ đến khu vực phường Hồng Hải để tìm sơ hở trộm cắp tài sản thì bị tổ tuần tra Công an phường Hồng Hải kiểm tra hành chính và đưa về Cơ quan Công an làm việc.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 103/KLĐG ngày 27/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Hạ Long kết luận: Giá trị của 01 chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Samsung Tab A Plus 8.0 (2019) Spen, vỏ màu ghi, dung lượng 32GB, mua mới tháng 11/2019, tại thời điểm bị xâm phạm là 3.423.000 đồng. (Ba triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn đồng).

Tại Công văn số 116/HĐĐG ngày 25/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Hạ Long trả lời: Hội đồng định giá tài sản thành phố Hạ Long từ chối định giá tài sản là 01 chiếc bao ốp lưng bảo vệ ngoài máy tính bảng Samsung Tab A plus 8.0 (2019) Spen, chất liệu giả da, màu xanh, không rõ nhãn hiệu, kích thước (20x14)cm, mua mới tháng 01/2020, tài sản đã qua sử dụng (vật chứng chưa thu hồi), do tài sản mua đã cũ, hiện chưa thu hồi được, không xác định được tình trạng thực tế, nhãn hiệu của tài sản, các thông tin về tài sản chưa đủ cơ sở để tiến hành định giá.

Quá trình điều tra, Bùi Xuân Đ, Trần A và Bùi Nguyễn Hải Q đều khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Trong vụ án, Bùi Nguyễn Hải Q - sinh ngày 17/12/2006, tại thời điểm có hành vi trộm cắp tài sản chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự. Công an thành phố Hạ Long đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Bùi Nguyễn Hải Q.

Tại phiên tòa các bị cáo Bùi Xuân Đ và Trần A đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Bị hại anh Giáp Minh Đ tại cơ quan điều tra có lời khai phù hợp với lời khai của các bị cáo về việc anh bị mất tài sản, nay anh đã được các bị cáo bồi thường đầy đủ giá trị chiếc máy tính bảng nên anh không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì thêm, anh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Anh Hàn Vũ Đ và anh Nguyễn Tiến H có lời khai tại cơ quan điều tra: Sau khi mua chiếc máy tính bảng đã bán cho anh Nguyễn Tiến H, sinh năm 1998, trú tại tổ 8, khu 5, phường Hà Tu, thành phố Hạ Long. Đến khoảng 15 giờ ngày 26/5/2021, anh H đã bán lại chiếc máy tính bảng cho một nam thanh niên không rõ nhân thân, lai lịch. Các anh đều khai khi mua chiếc máy tính bảng trên đều không biết tài sản do phạm tội mà có. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long đã tiến hành truy tìm vật chứng nhưng chưa thu hồi được.

Tại bản Cáo trạng số 186/CT-VKSHL ngày 21/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố bị cáo Bùi Xuân Đ và Trần A về tội: “Trộm cắp tài sản” Q định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với các bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản" và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; khoản 1, 2 và 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bùi Xuân Đ và bị cáo Trần A, mỗi bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao các bị cáo cho UBND nơi các bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính Qền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo. Trong thời gian thử thách, các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể Quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với các bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đề cập.

Về vật chứng của vụ án: Không thu hồi được nên không đề cập.

Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến gì về Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long và bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như đã trình bày và xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm Quyền, trình tự, thủ tục Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Tại phiên tòa bị cáo Bùi Xuân Đ và Trần A khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có Quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 03 giờ ngày 25/5/2021, tại tổ 2, khu 4A, phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long, Bùi Xuân Đ, Trần A cùng Bùi Nguyễn Hải Q, sinh ngày 17/12/2006 (chưa đủ 16 tuổi nên không phải chịu trách nhiệm hình sự), có hành vi trộm cắp 01 (một) chiếc máy tính bảng nhãn hiệu Samsung Tab A plus 8.0 spen, vỏ màu ghi, dung lượng 32GB của anh Giáp Minh Đ, trị giá 3.423.000 đồng (Ba triệu bốn trăm hai mươi ba nghìn đồng).

Hành vi nêu trên của các bị cáo Bùi Xuân Đ và Trần A đã đủ yếu tố cấu thành tội:

“Trộm cắp tài sản” Quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến Quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó cần tuyên cho các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay cả hai bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; Các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho người bị hại để khắc phục hậu quả và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Q định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vai trò: Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau bàn bạc việc đi trộm cắp, nên cả hai giữ vai trò ngang nhau.

[5] Về hình phạt: Khi lượng hình, căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của các bị cáo cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Các bị cáo Bùi Xuân Đ và Trần A chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ Quy định khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo có nơi thường trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này các bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú. Do đó không cần thiết phải bắt các bị cáo Đ và A đi chấp hành hình phạt tù mà để các bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương dưới sự giám sát của gia đình và xã hội trong một thời gian nhất định cũng đủ răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Không thu giữ được nên không đề cập.

[8] Về dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường thêm, gia đình các bị cáo và các bị cáo không yêu cầu Bùi Nguyễn Hải Q phải hoàn trả tiền mà gia đình các bị cáo đã bồi thường cho bị hại, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải Quyết.

[9] Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo về tội danh, điều khoản truy tố, tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt đề nghị áp dụng là có căn cứ, phù hợp với nội dung của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Nội dung khác:

- Đối với số tiền 1.000.000đồng các bị cáo bán máy tính bảng có được là tiền do phạm tội mà có (đã sử dụng hết), gia đình các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại nên không buộc các bị cáo phải nộp lại số tiền này để sung ngân sách Nhà nước.

- Đối vối anh Hàn Vũ Đức và anh Nguyễn Tiến Hiệp mua lại chiếc máy tính bảng trên nhưng anh Đức và anh Hiệp không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

[11] Về án phí và Quyền kháng cáo: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm. Các bị cáo, bị hại và người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có Quyền kháng cáo bản án theo Quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58; Khoản 1, 2 và 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố : Bị cáo Bùi Xuân Đ và bị cáo Trần A phạm tội: "Trộm cắp tài sản".

Xử phạt :

1. Bị cáo Bùi Xuân Đ 6 (sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đ cho UBND phường Cao Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính Qền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

2. Bị cáo Trần A 6 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần A cho UBND phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính Quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, các bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể Qết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Biện pháp ngăn chặn : Áp dụng: điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự. Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 178 và 179/HSST- LCĐKNCT ngày 26/7/2021 và Qết định tạm hoãn xuất cảnh số 07 và 08/2021/QĐ ngày 26/7/2021 của Tòa án nhân dân thành Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo Bùi Xuân Đ và bị cáo Trần A.

Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Q định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Bùi Xuân Đ và Trần A, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

Về Quyền kháng cáo : Áp dụng: Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo có Quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại (anh Giáp Minh Đức) vắng mặt có Quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có Quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có Quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến Quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2021/HSST ngày 30/08/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:211/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về