Bản án 210/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 210/2021/HS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07/ 6/ 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 234/ 2021/ HSST ngày 04/ 5/ 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 227/QĐXXST- HS ngày 24/ 5/ 2021 đối với bị cáo:

Lê Xuân T; Sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn T P, xã HQ, huyện H H, tỉnh Thanh Hóa; Văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Con ông Lê Xuân Th và con bà Lê Thị H; Tiền sự ; Không; Tiền án: Tháng 5/2011 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 18 tháng tù, cho hưởng án treo về tội “Cướp tài sản”; Tháng 4/2014 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt với bản án năm 2011 là 33 tháng tù ( bị cáo chấp hành xong ngày 07/6/2016); Ngày 07/12/ 2016 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 18/7/ 2019 Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú” – Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại : Chị Nguyễn Hồng D – sinh năm 1988 – Vắng mặt Địa chỉ: Số nhà 05, phố Nam Sơn, phường An Hưng, thành phố Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h30p ngày 25/12/2020, Lê Xuân T điều khiển xe mô tô Wave RSX, BKS 36B5 – 844.53 màu đỏ đen đến nhà bác để viếng đám ma. Trên đường đi, T ghé vào cửa hàng tạp hóa T D của chị Nguyễn Hồng D ở số 05 N S, P. A H để mua vàng hương; Lúc này T phát hiện có một chiếc điện thoại Iphone 6 plus màu xám đang để trên kệ bán hàng không có ai trông coi. Lợi dụng lúc chị D trả lại tiền thừa khi mua hàng, T lại gần chiếc điện thoại, lấy bỏ vào túi và nhanh chóng ra xe bỏ đi. Sau đó T đi đến nhà bác thắp hương đám ma rồi về nhà cất giấu điện thoại. Khi phát hiện bị mất chiếc điện thoại, chị D kiểm tra lại camera của cửa hàng và thấy nam thanh niên vừa đến mua vàng hương, đi xe mô tôBKS 36B5 – 844.53 đã lấy mất điện thoại của chị. Chị D đã lên trụ sở Công an P. AH để trình báo sự việc. Đến sáng ngày 27/12/2020, Công an P. A H triệu tập T lên làm việc, T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bị hại Nguyễn Hồng D báo cáo, tài sản bị chiếm đoạt là một chiếc điện thoại Iphone 6 plus màu xám, trị giá khoảng 3.000.000đ.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Thanh Hóa đã định giá chiếc điện thoại trên có giá trị 900.000đ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại cho bị hại, chị D đã nhận lại đầy đủ và không có yêu cầu gì thêm.

Đối với chiếc xe mô tô Wave RSX, BKS 36B5-84453 màu đỏ đen T dùng để thực hiện hành vi phạm tội, quá trình điều tra xác định chiếc xe là của bà Lê Thị H – mẹ T, sinh năm 1966, trú tại thôn Tây Phúc, xã Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hóa. Ngày 25/12/2020 T lấy xe ra đi ra ngoài nhưng bà H không biết việc T phạm tội, nên cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe cho bà H.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị can Lê Xuân T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 128/CTr-VKS ngày 29/4/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, đã truy tố bị cáo Lê Xuân T về tội “ Trộm cắp tài sản” theo Điểm b Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị HĐXX:

Áp dụng:

Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Xuân T từ 06 đến 09 tháng tù.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiếm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên:

Quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi quyết định của người tiến hành tố tụng.

[ 2] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận:

Khoảng 20h30p ngày 25/12/2020, tại cửa hàng tạp hóa của chị Nguyễn Hồng D, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chị D, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại di động loại Iphone 6lus màu xám, nhưng chưa kịp mang đi tiêu thụ thì bị phát hiện. Kết quả định gía chiếc điện thoại bị cáo chiếm đoạt trị giá trị giá 900.000đ.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên toà thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử xét thấy: Tuy giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị dưới 2.000.000đ. Nhưng bị cáo đã có tiền án về tội” Trộm cắp tài sản” và “ Cướp tài sản” chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, nên đây là tình tiết định tội đối với bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “ Trộm cắp tài sản ” theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 của BLHS.

Vì vậy VKSND thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo Lê Xuân T về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Mặc dù nhân thân bị cáo đã nhiều lần bị xét xử vè tội chiếm đoạt tài sản, nhưng bị cáo không chịu lao động để cải tạo thành con người lương thiện mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an trong xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân và đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, nên cần xử lý nghiêm.

[4] Đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo;. Nên khi xem xét hình phạt cũng cần áp dụng Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[ 5] Về hình phạt:

Căn cứ vào nhân thân và tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì cần cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính chất phòng ngừa chung.

[ 6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, tiền bồi thường và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự, nên công nhận phần dân sự đã được giải quyết xong.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 BLTTHS và Điểm a khoản 1 Điều 23 NQ 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Khoản 1 Điều 173; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Xử phạt:

Lê Xuân T 08 ( tám) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu gì thêm về phần dân sự, nên công nhận phần dân sự đã được giải quyết xong.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 9 luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 210/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:210/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về