Bản án 209/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C M, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 209/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 524/2020/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 453/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 Quyết định hoãn phiên tòa số 424/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị SR , sinh năm 1990; nơi cư trú: ấp LQ1, xã LĐB, huyện CM, tỉnh An Giang (có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1987; nơi cư trú: ấp LQ2, xã LĐB, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn bà Nguyễn Thị SR trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn T cưới nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn, hôn nhân do ông, bà tự tìm hiểu và được cha mẹ đồng ý. Vợ chồng chung sống được khoảng 3 năm thì mâu thuẫn, nguyên nhân là do chồng thường hay uống rượu về kiếm chuyện chửi vợ, được cha mẹ hai bên hàn gắn vợ chồng chung sống đến tháng 6/2020 thì tiếp tục mâu thuẫn và ly thân cho đến nay. Thấy tình cảm không còn bà xin ly hôn với ông Nguyễn Văn T; về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Tấn P, sinh ngày 07/02/2011 hiện nay đang sống với mẹ. Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: không có; về nợ chung: không có.

Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vắng mặt không lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của ông về nội dung đơn khởi kiện của bà R.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Bà Nguyễn Thị SR khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Ông Trọng có nơi cư trú tại ấp LQ2, xã LĐB, huyện CM, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện CM thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Về nội dung:

[3] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị SR và ông Nguyễn Văn T xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau vào năm 2010 có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ông, bà chung sống hạnh phúc đến tháng 6/2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà R trình bày vợ chồng mâu thuẫn là do chồng thường hay uống rượu về kiếm chuyện chửi vợ nên ông bà sống ly thân cho đến nay. Bà xác định tình cảm không thể tồn tại và hàn gắn được; cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Hội đồng xét xử xét thấy ông Nguyễn Văn T đã được tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc bà R khởi kiện yêu cầu ly hôn và thông báo đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vắng mặt không rõ lý do. Điều này thể hiện vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị SR là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Bà Nguyễn Thị SR xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Tấn P, sinh ngày 07/02/2011 hiện nay bà đang chăm sóc nuôi dưỡng. Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ lúc vợ chồng ly thân đến nay bà R là người trực tiếp nuôi con chung nên tình cảm, tâm tư gắn liền với người nuôi dưỡng. Hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến con chung, qua ghi nhận cháu Phúc có nguyện vọng tiếp tục sống với mẹ. Do đó, cần để bà R tiếp tục nuôi con chung là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình cũng như nguyện vọng của con.

Do bà Nguyễn Thị SR không yêu cầu ông Nguyễn Văn T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về tài sản chung: do bà Nguyễn Thị SR xác định không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về nợ chung: ghi nhận bà Nguyễn Thị SR xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Bà Nguyễn Thị SR phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 144, 147, 227, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị SR và xử như sau:

- Về hôn nhân: Cho bà Nguyễn Thị SR được ly hôn với ông Nguyễn Văn T. Giấy chứng nhận kết hôn số 97, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã LĐB, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 09 tháng 06 năm 2011 không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị SR được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Tấn P, sinh ngày 07/02/2011, ông Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thị SR cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Văn T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: không có.

- Về nợ chung: Ghi nhận bà Nguyễn Thị SR xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Nguyễn Thị SR và ông Nguyễn Văn T vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Bà Nguyễn Thị SR phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008656 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM, tỉnh An Giang cấp ngày 01 tháng 7 năm 2020. Bà Nguyễn Thị SR đã nộp đủ.

Bà Nguyễn Thị SR được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 209/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:209/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về