TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 209/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 201/2019/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:
Trịnh Minh T, sinh năm 1992 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 12/48 khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trịnh Minh G, sinh năm 1972 và bà Dương Thị Hồng P, sinh năm 1972; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 05/5/2019; có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Ông Trịnh Minh G, sinh năm 1972; thường trú: 12/48 khu phố B, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; có mặt.
+ Bà Dương Thị Hồng P, sinh năm 1972; thường trú: B210C khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Người chứng kiến: Anh Ao Minh C; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các hồ sơ có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trịnh Minh T là người sử dụng ma túy loại methamphetamine. Khoảng 23 giờ 00 ngày 04/5/2019, Trịnh Minh T sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng gọi cho người thanh niên tên T (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua ma túy để sử dụng. Trịnh Minh T sử dụng xe mô tô hiệu Halim-Krea Air Blade màu đen biển số 61C1-024.20 nhưng gắn biển số xe 61T7-9352 chạy đến khu công nghiệp ĐaPark thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương gặp T mua 02 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, loại methamphetamine được quấn trong giấy vệ sinh với giá 200.000 đồng. Trịnh Minh T cất ma túy trong túi quần rồi điều khiển xe về nhà bạn tên T chơi và phụ giúp dọn dẹp. Đến 23 giờ 50 phút cùng ngày, Trịnh Minh T cầm ma túy trên tay rồi điều khiển xe mô tô chạy về nhà. Khi đến trước nhà số 70 đường Đông Tác, thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an phường T kiểm tra phát hiện Trịnh Minh T đang thả gói ma túy từ trên tay phải xuống đường nên bị bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang.
Căn cứ kết luận giám định số 362/MT-PC09 ngày 09/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu vật gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,1532gam (M1) loại Methamphetamine.
Vật chứng thu giữ: Xe mô tô hiệu Halim-Krea Air Blade màu đen biển số 61C1-024.20 nhưng gắn biển số xe 61T7-9352, điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng, 01 bì thư đã niêm phong chứa tinh thể màu trắng, 01 nhúm giấy vệ sinh, sim số 0933.541.866.
Đối với Tuấn bán ma túy cho Trịnh Minh T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đang xác minh làm rõ xử lý sau.
Đối với xe mô tô hiệu Halim-Krea Air Blade màu đen biển số 61C1-024.20 của bà Dương Thị Hồng P cho bị cáo mượn sử dụng. Bà P không biết bị cáo sử dụng xe làm phương tiện đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại xe cho bà P.
Đối với biển số xe 61T7-9352 là của ông Trịnh Minh G. Ông G không biết bị cáo sử dụng biển số xe gắn vào xe mô tô hiệu Halim-Krea Air Blade màu đen để làm phương tiện đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An đã trả lại xe cho ông G.
Tại cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 25 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trịnh Minh T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trịnh Minh T mức án từ 14 tháng đến 18 tháng tù. Đề nghị tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, 01 sim điện thoại và một nhúm giấy vệ sinh. Đề nghị tịch thu sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng.
Tại phiên tòa, bị cáo Trịnh Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra, người chứng kiến không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Khoảng 23 giờ 50 phút ngày 05/5/2019, trước số nhà 70, đường Đông Tác, khu phố Đông Tác, phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, lực lượng Công an phường Tân Đông Hiệp kiểm tra phát hiện tay phải Trịnh Minh T đang thả xuống đất 02 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng được quấn trong giấy vệ sinh có khối lượng 0,1532gam nên bị bắt người phạm tội quả tang cùng tang vật.
[3] Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”
[4] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo Trịnh Minh T cất giữ ma túy loại methamphetamine khối lượng 0,1532 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 224/CT - VKS ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Trịnh Minh T là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[5] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[8] Về nhân thân: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, chưa có tiền án tiền sự và sử dụng ma túy.
[9] Về xử lý vật chứng:
Xét ma túy loại methamphetamine có khối lượng 0,0919gam (mẫu vật hoàn lại sau giám định) là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.
Xét sim số 0933.541.866 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy. Xét điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng, Trịnh Minh T sử dụng làm phương tiện phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.
[10] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[11] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Trịnh Minh T phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trịnh Minh T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ 05/5/2019.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Tịch thu tiêu hủy ma túy loại methamphetamine có khối lượng 0,0919 gam mẫu vật hoàn lại sau giám định, sim số 0933541866 và 01 nhúm giấy vệ sinh đã bị rách.
Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu samsung J7 màu vàng.
(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/6/2019).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trịnh Minh T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
4. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 209/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 209/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về