Bản án 208/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 208/2020/HS-ST NGÀY 23/07/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 203/2020/TLST-HS, ngày 08 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 214/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình A; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10 tháng 3 năm 1991; Tại: Nghệ An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 1, xã H Y N, huyện HNg, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở hiện nay: 9/3B đường số 10, khu phố 2, phường H B Ch, Quận Th Đ, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông: Nguyễn Đình H, sinh năm: 1966; Con bà: Nguyễn Thị Th, sinh năm: 1972; Bị cáo có vợ là Trần Thị H1, sinh năm: 1997; Bị cáo có 01 con, sinh năm: 2016. Hiện đều trú tại Xóm 1, xã HYN, huyện H N, tỉnh Ng; Tiền án: Không;

Tiền sư: Không.

Nhân thân:

Ngày 28/8/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, xử phạt 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 49/HSST). Ngày 24/9/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông xử phạt 01 năm tù, về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 47/HSST), ngày 21/11/2009, chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương sinh sống.

Ngày 30/12/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xử phạt 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 565/2010/HSST), ngày 13/5/2011, chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương sinh sống. Ngày 27/12/2011, bị Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 49/2011/HSST). Ngày 01/3/2013, chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương sinh sống.

Ngày 23/4/2015, bị Công an huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, xử phạt hành chính số tiền 500.000 đồng, về hành vi “Đánh nhau”, (Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 34/QĐ-XPVPHC).

Bị cáo tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2020 cho đến nay.

Người bị hại: Anh Lê Minh Ng (vắng mặt).

Đa chỉ: 26 Trương Q T, phường TL, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 10/02/2020, Nguyễn Đình A đón xe khách đi từ Thành phố Hồ Chí Minh đến thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Đến khoảng 06 giờ 00 phút, ngày 11/02/2020, An đến Bến xe phía Bắc tỉnh Đắk Lắk, do cần tiền tiêu xài nên A nảy sinh ý định tìm nhà dân sơ hở trộm cắp tài sản. Sau đó, A đi đến số nhà 26 Trương Quang Tuấn, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, do anh Lê Minh Ng (Sinh năm 1987) làm chủ, A nhìn thấy cổng chính đang khóa, cửa lan cáo trên tầng một bị hở, quan sát không có người trong nhà, An lén lút trèo theo trụ cổng, hàng rào của sân lên lan cáo tầng một, dùng tay kéo phá bật chốt khóa trong cửa lan cáo rồi đột nhập vào trong nhà, A đi theo cầu thang xuống phòng ngủ của gia đình anh Ngọc ở tầng trệt, thấy có 01 két sắt, màu xanh, đang khóa, A đi ra sau bếp, lấy 01 con dao có cán, lưỡi bằng kim loại quay vào lật ngửa két sắt, dùng dao cạy phá két sắt nhưng không được, nên A đi lên tầng một, trèo xuống đường cũ ra ngoài đi tìm công cụ để cạy phá két sắt. Khi đi ra đường, An bắt xe ôm của một người đàn ông (Chưa xác định được nhân, thân và lai lịch) chở A đến cửa hàng bán đồ sắt ở khu vực bùng binh Km3, thành phố Buôn Ma Thuột (Không xác định được địa chỉ, vị trí cửa hàng), A vào mua 01 cây xà beng bằng kim loại, dài 58cm, một đầu dẹp, một đầu cong rồi người đàn ông chạy xe ôm chở An quay trở lại gần nhà anh Ng, A tính tiền và lén lút đột nhập vào trong nhà anh Ng, dùng xà beng cạy phá két sắt trộm cắp được số tiền 17.000.000 đồng, A cất giấu cây xà beng cùng con dao vào dưới tủ kệ bếp rồi leo ra ngoài tẩu thoát. A gọi xe ta xi (Chưa xác định được hãng xe và lai lịch của tài xế) chở A đi mua một bộ quần, áo và một đôi giày hết số tiền 830.000 đồng để thay đồ nhằm tránh bị phát hiện rồi đón xe khách đi về lại Thành phố Hồ Chí Minh, số tiền còn lại 16.170.000 đồng A tiêu xài hết vào mục đích cá nhân. Đến ngày 10/3/2020, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công An thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện, bắt giữ.

Khám xét nơi ở của A, Cơ quan Cảnh sát điều tra thu giữ: 01 Ba lô màu đỏ, có lô gô nhãn hiệu Adidas; 01 đôi giày da màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu xám; 01 áo khoác màu đen, là những đồ vật A mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp và 01 quần vải dài màu xám; 01 đôi giày vải màu xám là đồ A dùng tiền do trộm cắp mà có để mua; 01 máy ảnh nhãn hiệu Cáoon màu vàng, loại PC1468, độ phân giải 14.1 Mega pixels. Quá trình điều tra, Cơ quan Canh sat điêu tra Công an thanh phô Buôn Ma Thuôt đa tam giư 01 cây xà beng bằng kim loại có hình xoắn, kích thước dài 58cm, một đầu dẹp rộng 04cm, một đầu uốn cong dài 07cm, rộng 04cm, có rãnh, trên thân có chữ Φ 20 và 01 con dao bằng kim loại màu trắng, có chữ KIWI - BRAND STAINLESS STEEL, kích thước lưỡi dao (16x8,5x0,2)cm, kích thước cán dao (11x2,5)cm.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 61/KLĐG, ngày 10/4/2020, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột kết luận: 01 két sắt nhãn hiệu Hòa Phát, màu sơn xanh, kích thước (45x40x60)cm, đã qua sử dụng, trị giá: 900.000 đồng. Anh Lê Minh Ng yêu cầu bị cáo Nguyễn Đình A bồi thường số tiền 17.00.000 đồng và giá trị tài sản chiếc két sắt bị hư hỏng với số tiền 900.000 đồng, tổng cộng 17.900.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 203/CT-VKS BMT ngày 8/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình A về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà không phát sinh tình tiết mới làm thay đổi bản chất của vụ án nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Tp Buôn Ma Thuột vẫn giữ nguyên bản cáo trạng số: 203/CT-VKS BMT ngày 8/7/2020 và đề nghị HĐXX: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình A phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình A mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự.

Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Đình A phải bồi thường cho anh Lê Minh Ng số tiền 17.00.000 đồng và giá trị tài sản chiếc két sắt bị hư hỏng với số tiền 900.000 đồng, tổng cộng 17.900.000 đồng.

Về vật chứng vụ án:

Trả lại cho bị cáo 01 Ba lô màu đỏ, có lô gô nhãn hiệu Adidas; 01 đôi giày da màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu xám; 01 áo khoác màu đen, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Tch thu tiêu hủy 01 quần vải dài màu xám và 01 đôi giày vải màu xám là đồ A dùng tiền do trộm cắp mà có để mua, đây là những tài sản của anh Lê Minh Ng do anh Ngọc không có nhu cầu nhận lại.

Tch thu tiêu hủy 01 cây xà beng bằng kim loại có hình xoắn, kích thước dài 58cm, một đầu dẹp rộng 04cm, một đầu uốn cong dài 07cm, rộng 04cm, có rãnh, trên thân có chữ Φ 20 là công cụ A sử dụng vào việc phạm tội và 01 con dao bằng kim loại màu trắng, có chữ KIWI - BRAND STAINLESS STEEL, kích thước lưỡi dao (16x8,5x0,2)cm, kích thước cán dao (11x2,5)cm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đình A thừa nhận hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 06 giờ 00 phút, ngày 11/02/2020, tại số nhà 26 Trương Quang Tuấn, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Đình A đã trộm cắp số tiền 17.000.000 đồng của anh Lê Minh Ng, thì bị phát hiện xử lý.

Do đó, có đủ cơ sở pháp lý kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Đình A đã phạm tội về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không oan sai.

Xét tính chất hành vi của bị cáo là nguy hiểm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người khác, đồng thời hành vi phạm tội của bị cáo còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức được rằng tài sản của công dân là bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật đều bị pháp luật trừng trị, xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật với bản chất lười biếng lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài, vào khoảng 06 giờ 00 phút, ngày 11/02/2020, tại số nhà 26 Trương Quang Tuấn, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Nguyễn Đình A đã trộm cắp số tiền 17.000.000 đồng của anh Lê Minh Ngọc Do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do lỗi cố ý gây ra.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm tình tiết định khung tăng nặng, do đó bị cáo bị xét xử ở khoản 1 Điều 173 BLHS.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm".

Về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo có nhân thân xấu đã có tiền án về tội chiếm đoạt tài sản. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, tài sản trộm cắp có giá trị không lớn, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo.Vì vậy, HĐXX xét thấy cần giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật Nhà nước ta.

Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt, xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự trong vụ án là phù hợp cần chấp nhận.

Với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo như đã nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, để buộc bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian thì mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự.

Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự.

Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Đình A phải bồi thường cho anh Lê Minh Ng số tiền 17.00.000 đồng và giá trị tài sản chiếc két sắt bị hư hỏng với số tiền 900.000 đồng, tổng cộng 17.900.000 đồng.

Về vật chứng vụ án:

Trả lại cho bị cáo 01 ba lô màu đỏ, có lô gô nhãn hiệu Adidas; 01 đôi giày da màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu xám; 01 áo khoác màu đen, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Tch thu tiêu hủy 01 quần vải dài màu xám và 01 đôi giày vải màu xám là đồ bị cáo dùng tiền do trộm cắp mà có.

Tch thu tiêu hủy 01 cây xà beng bằng kim loại có hình xoắn, kích thước dài 58cm, một đầu dẹp rộng 04cm, một đầu uốn cong dài 07cm, rộng 04cm, có rãnh, trên thân có chữ Φ 20 và 01 con dao bằng kim loại màu trắng, có chữ KIWI – BRAND STAINLESS STEEL, kích thước lưỡi dao (16x8,5x0,2)cm, kích thước cán dao (11x2,5)cm là công cụ A sử dụng vào việc phạm tội.

Ngoài ra, Nguyễn Đình A còn khai nhận: Vào ngày 04/3/2020, An còn lén lút đột nhập vào nhà của bà Lê Thị Ngọc B (Sinh năm 1964), ở địa chỉ thôn 7, xã Ea Ktur, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, trộm cắp 01 máy ảnh, nhãn hiệu Cáoon, màu vàng, loại PC 1468, độ phân giải 14.1 Mega pixels và 01 máy ảnh nhãn hiệu Cáoon, màu đen, độ phân giải 14.1 Mega pixels. Sau đó, A đem bán máy ảnh nhãn hiệu Cáoon, màu đen, độ phân giải 14.1 Mega pixels cho một tiệm máy ảnh (Chưa xác định được) tại Thành phố Hồ Chí Minh được số tiền 400.000 đồng và tiêu xài hết vào mục đích cá nhân, còn chiếc máy ảnh, nhãn hiệu Cáoon, màu vàng, loại PC 1468, độ phân giải 14.1 Mega pixels, An cất giấu tại phòng trọ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã có Công văn phối hợp điều tra gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk để xử lý theo quy định pháp luật, nhưng hiện nay chưa nhận được văn bản trả lời của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin, nên đã tách hành vi trộm cắp và tang vật là 01 máy ảnh nhãn hiệu Ca non màu vàng, loại PC1468, độ phân giải 14.1 Mega pixels ra khỏi vụ án, để chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Kuin xử lý theo thẩm quyền. Đối với hành vi làm hư hỏng chiếc két sắt nhãn hiệu Hòa Phát, màu sơn xanh, giá trị tài sản bị hư hỏng số tiền 900.000 đồng của Nguyễn Đình A chưa đủ định lượng để xử lý về hành vi Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, mặt khác, quá trình điều tra bị cáo A chưa có tiền án, tiền sự gì về hành vi Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác, nên Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra quyết định xử phạt hành chính, là phù hợp.

Đi với người đàn ông chạy xe ôm chở A đi mua xà beng và người đàn ông lái xe ta xi chở A đi mua quần áo, hiện Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân, lai lịch và đặc điểm xe, nên đã tách ra khỏi vụ án, để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau

[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đình A phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đình A 02 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 10/3/2020.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 584, Điều 585 Bộ luật dân sự.

Về vật chứng vụ án:

Trả lại cho bị cáo 01 Ba lô màu đỏ, có lô gô nhãn hiệu Adidas; 01 đôi giày da màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu xám; 01 áo khoác màu đen, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Tch thu tiêu hủy 01 quần vải dài màu xám và 01 đôi giày vải màu xám là đồ bị cáo dùng tiền do trộm cắp mà có.

Tch thu tiêu hủy 01 cây xà beng bằng kim loại có hình xoắn, kích thước dài 58cm, một đầu dẹp rộng 04cm, một đầu uốn cong dài 07cm, rộng 04cm, có rãnh, trên thân có chữ Φ 20 và 01 con dao bằng kim loại màu trắng, có chữ KIWI – BRAND STAINLESS STEEL, kích thước lưỡi dao (16x8,5x0,2)cm, kích thước cán dao (11x2,5) cm là công cụ A sử dụng vào việc phạm tội.

(Có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 8/7/2020)

Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Đình A phải bồi thường cho anh Lê Minh Ngọc số tiền 17.00.000 đồng và giá trị tài sản chiếc két sắt bị hư hỏng với số tiền 900.000 đồng, tổng cộng 17.900.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Đình A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 895.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm Bị cáo tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7 và điều 9 Luật THADS; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật THADS.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2020/HS-ST ngày 23/07/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:208/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về