Bản án 208/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C M, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 208/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 494/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 464/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2020 Quyết định hoãn phiên tòa số 423/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Võ Thị Cẩm L (T), sinh năm 1997; nơi cư trú: ấp PT3, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang (có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Trùng D, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp Phú Thượng 2, xã Kiến An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn bà Võ Thị Cẩm L trình bày: Bà và ông Nguyễn Trùng D cưới nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn, hôn nhân do mai mối và được cha mẹ quyết định. Vợ chồng chung sống được 03 năm thì mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp nhau về lối sống nên sống ly thân khoảng 01 năm. Thấy tình cảm không còn bà xin ly hôn với ông Nguyễn Trùng D; về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Võ Minh H, sinh ngày 18/3/2016 hiện nay bà đang chăm sóc nuôi dưỡng. Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: không có; về nợ chung: không có.

Bị đơn ông Nguyễn Trùng D đã được triệu tập hợp lệ đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vắng mặt không lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của ông về nội dung đơn khởi kiện của bà L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Bà Võ Thị Cẩm L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Trùng D. Ông Nguyễn Trùng D có nơi cư trú tại ấp Phú Thượng 2, xã KA, huyện CM, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện CM thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn ông Nguyễn Trùng D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Về nội dung:

[3] Về hôn nhân: Bà Võ Thị Cẩm L và ông Nguyễn Trùng D xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau vào năm 2010 có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ông, bà chung sống hạnh phúc được khoảng 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo bà L trình bày vợ chồng mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, không hợp nhau về lối sống nên ông bà sống ly thân khoảng 01 năm. Bà xác định tình cảm vợ chồng không thể tồn tại và hàn gắn được; cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn với ông Nguyễn Trùng D. Hội đồng xét xử xét thấy mặc dù ông Nguyễn Trùng D đã được tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc bà L khởi kiện yêu cầu ly hôn và thông báo đến Tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vắng mặt không rõ lý do. Hơn nữa, ngày 14/02/2020 bà Võ Thị Cẩm L và ông Nguyễn Trùng D có làm tờ tự thuận ly hôn. Điều này thể hiện vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Võ Thị Cẩm L là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Bà Võ Thị Cẩm L xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Võ Minh H, sinh ngày 18/3/2016 hiện nay bà đang chăm sóc nuôi dưỡng. Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu chồng cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ lúc vợ chồng ly thân đến nay bà L là người trực tiếp nuôi con chung nên tình cảm, tâm tư gắn liền với người nuôi dưỡng. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Trùng D cũng không có ý kiến gì với bà L trong việc nuôi con chung. Do đó, cần để bà L tiếp tục nuôi con chung là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

Do bà Võ Thị Cẩm L không yêu cầu ông Nguyễn Trùng D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về tài sản chung: do bà Võ Thị Cẩm L xác định không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về nợ chung: do bà Võ Thị Cẩm L xác định không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Bà Võ Thị Cẩm L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 144, 147, 227, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Cẩm L và xử như sau:

- Về hôn nhân: Cho bà Võ Thị Cẩm L được ly hôn với ông Nguyễn Trùng D. Giấy chứng nhận kết hôn số 217, quyển số 02/2015 do Ủy ban nhân dân xã KA, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 11 tháng 9 năm 2015 không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Bà Võ Thị Cẩm L được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Võ Minh H, sinh ngày 18/3/2016, ông Nguyễn Trùng D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Võ Thị Cẩm L cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Nguyễn Trùng D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về tài sản chung: Không có

- Về nợ chung: Ghi nhận bà Võ Thị Cẩm L xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bà Võ Thị Cẩm L và ông Nguyễn Trùng D vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Bà Võ Thị Cẩm L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008587 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM, tỉnh An Giang cấp ngày 17 tháng 6 năm 2020. Bà Võ Thị Cẩm L đã nộp đủ.

Bà Võ Thị Cẩm L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Trùng D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:208/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về