Bản án 208/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG

BẢN ÁN 208/2019/HS-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 202/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 221/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2019, đối với:

Bị cáo: Nguyễn Thanh S, sinh năm 1991, tại: Bến Tre. HKTT và chỗ ở: Khu phố B, Phường B, thành phố T, tỉnh Bến Tre; Nghề nghiệp: sửa điện thoại; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn T (đã chết) và mẹ: Lê Thị Thúy N; Vợ: Nguyễn Thị Thúy A và có 02 con, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2017; Tiền sự: không; Tiền án: Bản án số 42/2015/HSPT ngày 27/3/2015 của Tòa án tỉnh Bến Tre xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Nhân thân: Bản án số 90/2009/HS-ST ngày 30/10/2009 của Tòa án thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Bản án số 06/2018/HS-ST ngày 01/02/2018 của Tòa án thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 06/2019/HS-ST ngày 11/4/2019 của Tòa án tỉnh Bến Tre xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo đang chấp hành hình phạt 09 tháng tù từ ngày 09/5/2019 của bản án số 06/2019/HS-ST ngày 11/4/2019. (có mặt)

Bị hại: Công ty Tài chính TNHH Một thành viên H. Địa chỉ: phường Đ, Quận H, TP Hồ Chí Minh. Người đại diện theo pháp luật: Ông M - Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Phước T - Chuyên viên an ninh Công ty.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên vào khoảng 13 giờ ngày 02/01/2016, Nguyễn Thanh S đến cửa hàng Thế giới di động tại địa chỉ 290 Đ, Phường T, Thành phố V, S sử dụng 01 giấy chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe cùng mang tên Bùi Quang T, sinh năm 1985; HKTT: 11 T, Phường C, TP L và tự nhận mình là Bùi Quang Tuân lừa dối nhân viên của cửa hàng để vay trả góp của Công ty Tài chính TNHH Một thành viên H số tiền 8.369.000đ mua 01 điện thoại di động hiệu Samsung A8, theo hợp đồng tín dụng số 3656332317 ngày 02/01/2016. Đến tháng 03/2016, Công ty H phát hiện khách hàng trong hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ đóng tiền trả góp theo hợp đồng đã ký. Qua tiến hành thẩm tra lại hồ sơ, Công ty H phát hiện người làm hợp đồng nêu trên là Nguyễn Thanh S đã giả tên là Bùi Quang T (vì trước đó S có sử dụng chứng minh nhân dân và giấy phép lái xe mang tên mình để mua điện thoại di động trả góp của Cong ty H) nên làm đơn tố giác hành vi phạm tội của S đến cơ quan điều tra công an thành phố V.

Tại Cơ quan điều tra công an thành phố V, Nguyễn Thanh S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.

Tại Bản kết luận giám định số 930/PC09-Đ3 ngày 03/7/2019 kết luận: Chữ ký, chữ viết trên hợp đồng tín dụng số 3656332317 mang tên Bùi Quang T với chữ ký, chữ viết thu được của S là do cùng một người ký và viết ra.

Vật chứng thu giữ: là 01 hợp đồng tín dụng tiêu dùng số 3656332317 ngày 02/01/2016 mang tên Bùi Quang T lưu theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình nộp 8.400.000đ tại Chi cục Thi hành án thành phố V để khắc phục hậu quả.

Bản cáo trạng số 197/CT-VKSTPVT ngày 20/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố Nguyễn Thanh S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt và đồng ý bồi thường cho bị hại 8.400.000đ.

Đại diện của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường khoản tiền đã vay 8.369.000đ và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 56 và Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Tổng hợp hình phạt 09 tháng tù theo bản án số 06/2019/HS-ST ngày 11/4/2019, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 24 đến 27 tháng tù; Về vật chứng: đề nghị lưu theo hồ sơ vụ án 01 hợp đồng tín dụng số 3656332317 ngày 02/01/2016; Trách nhiệm dân sự: ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho bị hại 8.400.000đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai phù hợp với Kết luận giám định, lời khai của bị hại, của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Khoảng 13 giờ 00 ngày 02/01/2016, tại Cửa hàng Thế giới di động số 290 Đ, Phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Nguyễn Thanh S có hành vi sử dụng giấy phép lái xe và chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Quang Tuân và tự nhận mình là Nguyễn Quang Tuân lừa dối nhân viên của cửa hàng ký hợp đồng tín dụng tiêu dùng trả góp với Công ty Tài chính TNHH Một thành viên H để chiếm đoạt số tiền 8.369.000đ. Như vậy, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bản thân bị cáo có nhân thân rất xấu, năm 2009 bị xử phạt 04 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, năm 2015 bị xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, năm 2018 bị xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và năm 2019 bị xử phạt 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do hành vi bị xét xử năm 2018 và 2019 có sau hành vi phạm tội của bản án này nên không được xác định là tình tiết tái phạm; Đối với hành vi trộm cắp tài sản của bản án năm 2015 bị cáo chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên được xác định là tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, bị cáo đã tác động gia đình nộp số tiền 8.400.000đ để khắc phục hậu quả; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên căn cứ điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Do bị cáo đang chấp hành hình phạt 09 tháng tù từ ngày 09/5/2019 của bản án số 06/2019/HS-ST ngày 11/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre nên căn cứ Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp với hình phạt của bản án này buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[6] Xử lý vật chứng: lưu theo hồ sơ vụ án 01 hợp đồng tín dụng số 3656332317 ngày 02/01/2016.

[7] Trách nhiệm dân sự: Bị cáo tác động gia đình tự nguyện bồi thường cho bị hại 8.400.000đ lớn hơn số tiền bị hại yêu cầu nên ghi nhận.

[8] Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo về điều luật áp dụng và mức hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết có trong vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Thanh S 15 (Mười lăm) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 09 (chín) tháng tù của bản án số 06/2019/HSST ngày 11/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù chung là 24 (Hai mươi bốn) tháng. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Lưu theo hồ sơ vụ án 01 hợp đồng tín dụng số 3656332317 ngày 02/01/2016.

3. Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong. Công ty Tài chính TNHH Một thành viên H được nhận lại số tiền 8.400.000đ (Tám triệu bốn trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0000718 ngày 21/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V.

4. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:208/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về