Bản án 208/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 208/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 208/2019/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 204/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc C, sinh ngày 28 tháng 8 năm 1987 tại tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 19 (nay là số 21), đường P, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc H, sinh năm 1966 (đã chết), con bà Phạm Thị L, sinh năm 1968; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật lần nào. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 30/10/2019 cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại: Anh Đặng Văn H, sinh năm 1995.

Nơi cư trú: Thôn Q 3, xã Q, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Mông Đức V;

2. Anh Hoàng Văn T;

Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quốc C mở quán ăn tại số 11, đường L, phường V, thành phố L. Tháng 7/2019, anh Đặng Văn H đến làm việc tại quán khoảng 15 ngày thì nghỉ việc. Do nghĩ anh Đặng Văn H nói xấu quán, làm quán không tuyển được nhân viên làm việc, ảnh hưởng đến việc kinh doanh của quán. Khoảng 21 giờ ngày 16/9/2019, tại vỉa hè trước cửa nhà số 11, đường L, phường V, thành phố L, Nguyễn Quốc C đã có hành vi dùng dao chém vào khuỷu tay phải và vào phần đuôi mắt trái, đập một phát phần bản rộng của dao vào phần đầu và cổ bên trái của Đặng Văn H gây thương tích.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 con dao (dùng để thái thịt) có chiều dài 33cm, lưỡi dao bằng kim loại bị hoen rỉ, chiều dài lưỡi 21cm, bản rộng lưỡi 10,5cm, trên lưỡi dao có ghi chữ “Lê Quang Đa Sỹ”, chuôi dao bằng gỗ có chiều dài 12cm; 01 con dao (dùng để thái thịt) có chiều dài 36,5cm, lưỡi dao bằng kim loại bị hoen rỉ có chiều dài 24cm, bản rộng lưỡi 9cm, trên lưỡi dao có ghi chữ “ Nguyên”, chuôi dao bằng kim loại có chiều dài 12cm.

Ti bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 340/PYTT ngày 21/10/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Lạng Sơn kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh Đặng Văn H: Sẹo vết thương vùng đuôi mắt, vùng cổ và khuỷu tay 12% (mười hai phần trăm) .

Quá trình điều tra Nguyễn Quốc C khai: Nguyễn Quốc C kinh doanh quán ăn tại số 11, đường L, phường V, thành phố L. Tháng 7/2019, anh Đặng Văn H là em vợ của người bạn là anh Nguyễn Văn Thuận đến làm việc tại quán khoảng 15 ngày thì nghỉ việc. Tối ngày 16/9/2019, có một người nam giới gọi điện đến hỏi xin làm việc tại quán, khi hai bên thỏa thuận về tiền lương thì người đó nói quen biết anh Đặng Văn H và anh Đặng Văn H nói quán trả lương không sòng phẳng nên Nguyễn Quốc C đã gọi điện cho anh Nguyễn Văn Thuận là anh rể của Đặng Văn H để nhắn nhắc nhở anh Đặng Văn H nói năng cẩn thận. Sau đó anh Đặng Văn H gọi điện đến hỏi bị cáo đã nói gì để anh Đặng Văn H bị chị gái mắng rồi hẹn sẽ đến quán nói chuyện. Do rất bực tức vì nghi ngờ anh Đặng Văn H nói xấu, làm quán không tuyển được nhân viên, ảnh hưởng đến việc kinh doanh, nên khoảng 15 phút sau, khi anh Đặng Văn H đi xe mô tô đến trước cửa quán gọi tên mình, Nguyễn Quốc C tay phải cầm con dao bằng kim loại có chiều dài 36,5cm, tay trái cầm con dao có chiều dài 33cm (lưỡi dao bằng kim loại, chuôi bằng gỗ) đi ra tay phải cầm dao chém theo hướng từ trái sang phải trúng vào khuỷu tay phải của anh Đặng Văn H rồi vung dao lên theo hướng từ phải sang trái, đúng lúc anh Đặng Văn H quay người lại nên trúng vào phần đuôi mắt trái của anh Đặng Văn H, tiếp theo bị cáo dùng bản rộng của dao đập vào đầu và cổ bên trái của anh Đặng Văn H. Khi thấy anh Đặng Văn H bị chảy máu, bị cáo dừng lại và đưa anh Đặng Văn H vào quán bán Gas bên cạnh nói chuyện. Khoảng 10 phút sau, bị cáo lấy hai con dao về cất, còn anh Đặng Văn H được người khác đưa đến bệnh viện điều trị vết thương.

Bị hại anh Đặng Văn H khai: Khoảng tháng 7/2019 anh đến làm việc tại quán của bị cáo được khoảng 2 tuần thì nghỉ việc và đi làm chỗ khác. Tối ngày 16/9/2019, chị gái anh gọi điện cho anh mắng anh về việc anh nói xấu ảnh hưởng đến việc làm ăn của quán bị cáo nên anh đã gọi điện cho bị cáo để giải thích nói rõ sự việc và hẹn đến quán nói chuyện với bị cáo. Khoảng 21 giờ, ngày 16/9/2019, anh đến quán gọi bị cáo ra để nói chuyện thì bị cáo cầm theo dao từ trong quán đi ra, chém vào khuỷu tay phải, đuôi mắt trái của anh và dùng bản rộng dao đập 01 phát vào đầu của anh gây thương tích 12%. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã đến nhà anh xin lỗi và bồi thường thiệt hại đầy đủ, anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ti các bản khai, người làm chứng anh Mông Đức V và anh Hoàng Văn T đều khai: Khoảng 21 giờ, ngày 16/9/2019, tại đường L, phường V, thành phố L, các anh nhìn thấy Nguyễn Quốc C trên tay cầm 02 con dao còn anh Đặng Văn H bị chảy máu ở đuôi lông mày trái và khuỷu tay phải.

Ti Cáo trạng số 207/CT-VKS, ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Quốc C về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai đã trình bày tại Cơ quan điều tra, thừa nhận trong lúc bực tức không kìm chế được bản thân đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn luận tội: Hành vi của bị cáo Nguyễn Quốc C đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh Đặng Văn H 12%. Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường cho bị hại và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích; áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận bị cáo và bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường thiệt hại xong, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 con dao thu giữ của bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo gửi lời xin lỗi bị hại và rất hối hận về hành vi đã thực hiện, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, những người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Qua đó Hội đồng xét xử thấy, ngày 16/9/2019, bị cáo đã có hành vi dùng 02 con dao là hung khí nguy hiểm chém vào khuỷu tay phải, đuôi mắt trái, đập bản rộng của dao vào đầu và cổ của anh Đặng Văn H, gây thương tích tỷ lệ 12%, đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội Cố ý gây thương tích quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong trong quần chúng nhân dân.

[3] Để quyết định hình phạt đối với bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, Hội đồng xét xử sẽ xem xét, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã xin lỗi và bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, ngoài lần phạm tội này bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú.

[6] Về nguyên nhân phạm tội xuất phát từ việc bị cáo không kìm chế được bực tức, cho rằng bị hại có lời nói xấu ảnh hưởng đến việc kinh doanh của quán, làm quán không tuyển được nhân viên.

[7] Bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có ý thức chấp hành đầy đủ mọi quy định của địa phương nơi cư trú và chính sách pháp luật của Nhà nước được chính quyền địa phương được xác nhận. Xét thấy, bị cáo có đủ các điều kiện cho hưởng án treo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao. Việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà để cho bị cáo cải tạo tại địa phương, dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và sự giúp đỡ của gia đình cũng đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[8] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong về việc bồi thường thiệt hại, bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về vật chứng: 02 con dao thu giữ của bị cáo là công cụ phạm tội cần tịch thu, tiêu hủy.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng và về việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và việc thu thập chứng cứ, tài liệu của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố L về tội danh, hình phạt đối với bị cáo và các nội dung khác là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[13] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc C phạm tội Cố ý gây thương tích.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc C 02 (hai) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 (bốn) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án Hình sự;

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án Hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 con dao chiều dài 33cm và 01 con dao chiều dài 36,5cm.

(Vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:208/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về