Bản án 2077/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH , THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 2077/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai Vụ án thụ lý số: 1084/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 6 năm 2019 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 429/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 299/2019/QĐST-HNGĐ ngày 28/10/2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Lê Xuân H, sinh năm 1978; địa chỉ: đường B, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

Bị đơn: Bà K, sinh năm 1987; địa chỉ: đường B, Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 17/4/2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Lê Xuân H trình bày:

Ông và bà K tự nguyện chung sống t năm 2011 nhưng đến năm 2016 mới đăng ký kết hôn trễ hạn. Giấy chứng nhận kết hôn số xx/20xx do Ủy ban nhân dân Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày xx/xx/20xx. Vợ chồng chung sống có một con gái chung tên là Lê K’Ngọc T, sinh ngày 28/4/2012.

Mâu thuẩn vợ chồng phát sinh nhiều nhất năm 2017, nguyên nhân là do kinh tế không ổn định. Trước đây, công việc làm ăn thuận lợi thì tình cảm vợ chồng hạnh phúc. Đến năm 2017, ông bị thất bại trong công việc, thu nhập kinh tế bị giảm sút, nợ nần thì vợ chồng thường xuyên tranh cãi, bà K hay phàn nàn và mắng chửi chồng. Ông và bà K cố gắng hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. T năm 2017, ông và bà K quyết định sống ly thân, vợ chồng vẫn ở chung nhà nhưng mỗi người ở một phòng riêng, con gái Lê K’Ngọc T ở chung với bà K. Năm 2018, ông và bà K thống nhất làm đơn yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn nhưng bà K thay đổi ý kiến không đến Tòa án nên Tòa án không thụ lý đơn yêu cầu. Sau đó, ông nộp đơn khởi kiện ly hôn nhưng được thẩm phán phân tích, vận động nên ông rút đơn ly hôn với bà K và được Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 969/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31/5/2018. Nay ông xác định không còn tình cảm với bà K và tiếp tục nộp đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà K.

Về con chung: Do trẻ Lê K’Ngọc T đã ở chung với mẹ từ nhỏ và không muốn tâm lý của con bị ảnh hưởng nên ông tiếp tục để bà K được trực tiếp nuôi con và ông tự nguyện cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

Về tài sản chung: Không có. Về nợ chung: Không có.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà K đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa nhưng vắng mặt và không có ý kiến phản hồi đối với nội dung khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật như sau:

- Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), người tiến hành tố tụng, nguyên đơn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về tố tụng, riêng bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Việc tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự đều đã được thực hiện đúng quy định nên việc xét xử vắng mặt các đương sự vừa nêu là phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra, Thẩm phán cần đảm bảo thời hạn chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 203 của BLTTDS.

- Về nội dung: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:

Phiên toà xét xử vụ án được mở vào lúc 13 giờ 30 ngày 28/10/2019 và 08 giờ 00 phút ngày 15/11/2019, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và thông báo về thời gian, địa điểm xét xử nêu trên nhưng bị đơn vắng mặt. Do đó, HĐXX quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS).

[1] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Ông H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà K.

Ông H và bà K kết hôn hợp pháp. Căn cứ vào lời khai của ông H; “Kết quả xác minh” của Công an Phường C, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh và với nội dung: “Ông Lê Xuân H và bà K thực tế có ở đường B, Phường C, quận T. Giữa hai bên có mâu thuẩn gì không, Công an không nắm rõ”; có cơ sở để xác định bà K vẫn còn cư trú tại địa phương. Ông H xác định không thể trở về đoàn tụ và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà K.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà K đã được tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải trong đó nêu rõ yêu cầu của ông H về việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, bà K được trực tiếp nuôi trẻ Lê K’Ngọc T và ông H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng nhưng bà K vắng mặt và cũng không có ý kiến phản hồi. Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được do vắng mặt bà K.

Nhận thấy bà K không có thiện chí hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, bản thân ông H xác định không còn tình cảm với bà K và đã nhiều lần nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Ông H và bà K chung sống không hạnh phúc, vợ chồng đã sống ly thân t năm 2017, mâu thuẩn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

T những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông H đối với bà K.

Về con chung: Do trẻ Lê K’Ngọc T đang được bà K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tại “Biên bản ghi nhận ý kiến” ngày 03/10/2019, trẻ T có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ, nên ghi nhận ý kiến ông H đồng ý để cho bà K tiếp tục nuôi dưỡng con chung và cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông H khai không có nên HĐXX không xem xét.

2 Về án phí:

Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Ý kiến của Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay về nội dung là có cơ sở pháp luật, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83 và 84, 110, 116, 117 và 118 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH16 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Xuân H.

a) Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê Xuân H được ly hôn với bà K.

b) Về con chung: Giao cho bà K trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Lê K’Ngọc T, sinh ngày 28/4/2012.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông H cấp dưỡng nuôi trẻ T mỗi tháng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng); bắt đầu thực hiện t ngày 15/12/2019 cho đến khi phát sinh căn cứ chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp, ông H chậm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì ông H phải trả cho bà K tiền lãi đối với số tiền chậm cấp dưỡng theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả.

Ông H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì lợi ích của con, việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con có thể thay đổi. c) Về tài sản chung và nợ chung: Ông H khai không có.

2. Về án phí: Ông Lê Xuân H chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được tr vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0021xxx ngày 17/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông H đã nộp đủ án phí.

3. Các quyền và nghĩa vụ thi hành án dân sự được thực hiện tại Chi cục Thi thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Trong trường hợp quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

5. Ông Lê Xuân H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể t ngày tuyên án. Bà K được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 2077/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:2077/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về