TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 207/2020/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 18 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 196/2020/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 227/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 115/2020/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Chị Phạm Ngọc T, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An (Nguyên đơn xin vắng mặt; bị đơn vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 21 tháng 02 năm 2020 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn anh Nguyễn Thành T trình bày: Anh và chị Phạm Ngọc T chung sống với nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, dù đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh và chị T đã ly thân từ tháng 7 năm 2016 đến nay. Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên anh xin ly hôn với chị Phạm Ngọc T.
Về con chung: Quá trình chung sống, anh và chị T có 01 con chung tên Nguyễn Trung H, sinh ngày 06/8/2007; từ khi ly thân đến nay, anh là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Khi ly hôn, anh T yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án, anh T có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng chị T vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Anh Nguyễn Thành T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị Phạm Ngọc T, chị T hiện thường trú tại ấp B, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An (được Công an xã H, huyện Đ, tỉnh Long An xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 1; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh T và chị T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H vào năm 2010 nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, anh T cho rằng do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau nên chị và chị T phát sinh mâu thuẫn, dù đã cố gắng hàn gắn nhưng không thành, chị và chị T ly thân từ tháng 7 năm 2016 đến nay. Mâu thuẫn giữa anh chị cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với chị Phạm Ngọc T, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của anh T nhưng chị T không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của anh T. Tại phiên tòa, chị T vẫn vắng mặt, chứng tỏ chị không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng đã không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của anh chị không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của anh T đối với chị T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Quá trình chung sống, anh T và chị T có 01 con chung tên Nguyễn Trung H, sinh ngày 06/8/2007. Từ khi ly thân đến nay, con chung do anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh T yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Đối với chị T, dù đã được thông báo yêu cầu của anh T về con chung nhưng chị không đến Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án.
Xét thấy, từ khi anh T và chị T xa nhau đến nay, anh T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Mặt khác, tại bản tự khai, con chung có nguyện vọng sống với anh T; do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho anh T nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Anh T không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5]. Về tài sản chung và nợ chung: Anh T trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; chị T không có văn bản phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về án phí: Anh T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự:
Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thành T đối với chị Phạm Ngọc T về việc “Ly hôn”.
- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thành T được ly hôn với chị Phạm Ngọc T.
- Về con chung: Anh Nguyễn Thành T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng 01 con chung tên Nguyễn Trung H, sinh ngày 06/8/2007. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung vì anh T không có yêu cầu.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí: Anh Nguyễn Thành T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004792 ngày 26/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 207/2020/HNGĐ-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 207/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về