Bản án 207/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 207/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 210/2019/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Phm Hoàng L, sinh ngày 23/7/1977 tại tỉnh Cao Bằng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số 02, ngõ 101, đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân T, sinh năm 1943 và bà Hoàng Thị T, sinh năm 1949; có vợ là Đặng Thị N (đã chết) và có 01 con sinh năm 2009; tiền sự: Không; tiền án: Bản án số 1327 ngày 28/8/1996 của Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 10 năm tù về các tội Mua bán vũ khí trái phép, Cướp tài sản công dân, Cướp giật tài sản của công dân (ngày 04/4/2004, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đến nay chưa chấp hành phần bồi thường dân sự, án phí, chưa được xóa án tích); nhân thân: Ngày 15/7/2016, bị Công an thành phố H, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính 3.500.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản; bị tạm giữ từ ngày 11/10/2019, tạm giam từ ngày 14/10/2019 đến nay. Có mặt.

- Những người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

1. Ông Phạm Xuân T. Vắng mặt.

2. Bà Hoàng Thị T. Vắng mặt.

3. Anh Đào Thanh L. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Ông Chu Văn S. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 11/10/2019, nhận được đơn tố cáo tội phạm, Công an thành phố L tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở tại số nhà 02, ngõ 101 đường B, phường H, thành phố L, bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Hoàng L, phát hiện và thu giữ: 01 hộp giấy màu đỏ bên trong có: 03 bật lửa ga; 10 ống hút nhựa; 07 mảnh giấy bạc; 01 chai nhựa có gắn vòi hút nhựa, bên trong có 02 vỏ nilon; 3.140.000đồng; 01 hộp trắng bạc bằng kim loại bên trong có: 01 túi ni lon màu trắng kích thước 05cm x 8,5cm bên trong có 03 viên nén màu hồng; 01 túi ni lon màu trắng kích thước 02cm x 03cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi ni lon màu trắng kích thước 2,5 cm x 3,5cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi ni lon màu trắng kích thước 02 cm x 3,5cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi ni lon màu trắng kích thước 04cm x 06cm bên trong có chứa 04 túi nilon màu trắng có cùng kích thước 02cm x 3,5cm bên trong đều chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động màu vàng; 01 điện thoại iphone màu trắng cũ đã qua sử dụng.

Ti Kết luận giám định số 347/KL-PC09 ngày 12/10/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: 03 (ba) viên nén màu hồng gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,309 gam (đã trừ bì); Chất tinh thể màu trắng đựng trong 07 (bẩy) túi ni lon gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 0,598 gam (đã trừ bì).

Ti Kết luận giám định số 321/KL-PC09 ngày 30/10/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, kết luận: Toàn bộ số tiền Việt Nam gồm: 3.140.000đồng (ba triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) trong gói niêm phong gửi giám định đều là tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Ti Cơ quan điều tra, Phạm Hoàng L khai nhận: Bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy khoảng 4 năm gần đây bằng hình thức hút qua vòi nhưng không thường xuyên sử dụng do mắc bệnh lao phổi. Khoảng 09 giờ ngày 10/10/2019, tại nhà B (không rõ họ, địa chỉ cụ thể) thuộc xã Hợp T, huyện C, tỉnh Lạng Sơn là người quen của bị cáo, bị cáo gặp và nhờ D (không biết họ tên đầy đủ, địa chỉ của D) là bạn của B mang chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen xám biển kiểm soát 12S1-12xx của em trai bị cáo là Phạm Hoàng V đi cầm cố để lấy tiền mua ma túy. Sau khi mang xe đi cầm cố D về đưa cho bị cáo 5.000.000đồng. Khoảng 14 giờ ngày 10/10/2019, bị cáo gọi điện thoại cho một người tên N (không rõ họ, địa chỉ) hỏi mua 3.000.000đồng (ba triệu đồng) ma túy, trong đó mua 1.500.000 đồng ma túy đá và 1.500.000đồng ma túy ngựa với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời. N đồng ý hẹn gặp đầu đường M, phường V, thành phố L. Khi đến nơi hẹn Nam đưa cho bị cáo 01 (một) túi ma túy ngựa gồm có 20 viên và 01 (một) túi ma túy đá khoảng 02 gam. Mua được ma túy, bị cáo mang về nhà sử dụng một mình khoảng 2-3 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá. Sau đó, bị cáo cầm hai túi ma túy đá, ngựa lên nhà B ở cuối đường N, xã Hợp T, huyện C, bị cáo bỏ ra khoảng 2-3 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá để sử dụng cùng B và D. Trong khi sử dụng ma túy bị cáo và B bàn bạc về việc bán ma túy. B lấy khoảng 5-6 viên ma túy ngựa và một ít ma túy đá đem bán cho người khác về đưa lại cho bị cáo tổng số tiền khoảng 1.000.000đồng, đưa thành 03 - 04 lần, có lần đưa 200.000đồng, có lần đưa 300.000đồng. Khoảng 17 giờ ngày 10/10/2019, bị cáo đến bến xe M thuộc tổ 5, khối 10, thị trấn C, huyện C bán cho Đào Thanh L 05 (năm) viên ma túy ngựa giá 500.000 đồng nhưng Đào Thanh L chưa trả tiền. Sau khi về nhà, bị cáo san ma túy đá còn lại ra các túi nilon nhỏ và cất số ma túy ngựa còn lại vào trong hộp bằng kim loại để dưới kệ gỗ để ti vi trong phòng khách. Trưa ngày 11/11/2019, bị cáo bán cho D 200.000đ ma túy đá, 02 viên ma túy ngựa giá 200.000đ. Sau đó, bị cáo lên khu vực cây xăng Tuấn Đức tổ 5, khối 10, thị trấn C, huyện C nhận tiền bán ma túy cho Đào Thanh L hôm trước. Đến khoảng 15 giờ 10 phút ngày 11/11/2019, bị tổ công tác tiến hành kiểm tra phát hiện bắt giữ. Quá trình điều tra, ban đầu bị cáo thừa nhận được bán ma túy cho người có tên B, D và Đào Thanh L, về sau bị cáo thay đổi lời khai, không thừa nhận đã bán ma túy cho B, D và Đào Thanh L mà khai là đã cho B, D, Đào Thanh L ma túy để sử dụng.

Người làm chứng ông Phạm Xuân T và bà Hoàng Thị T là bố mẹ của bị cáo khai: Ngày 10/10/2019 ông bà nhìn thấy Phạm Hoàng L cầm gói chất tinh thể màu trắng L nói đó là ma túy ma mua về bán lại sẽ được lãi. Ngày11/10/2019, bà Hoàng Thị T nhìn thấy Phạm Hoàng L cất những gói ma túy vào trong hộp nhôm màu trắng - xám, rồi cất ở kệ ti vi trong phòng khách của gia đình ông bà.

Người làm chứng anh Đào Thanh L khai: Ngày 10/10/2019, anh mua của bị cáo Phạm Hoàng L 05 viên ma túy ngựa với giá 500.000 đồng nhưng hôm sau mới trả tiền bị cáo.

Người chứng kiến ông Chu Văn S khai: Khoảng 15 giờ, ngày 11/10/2019, ông được chứng kiến việc lực lượng Công an kiểm tra nơi ở của Phạm Hoàng L tại số 02, ngõ 101, đường B, phường H, thành phố L, thu giữ 07 túi nilon bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và 01 túi ni lon chứa 03 viên nén màu hồng và một số đồ vật khác. Phạm Hoàng L khai nhận chất tinh thể màu trắng là ma túy đá, viên nén màu hồng là ma túy ngựa mua về để sử dụng và bán lại kiếm lời.

Ti Cáo trạng số 210/CT-VKS ngày 14/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Phạm Hoàng L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Ti phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi như trong cáo trạng là đúng với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Phạm Hoàng L từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 11/10/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy sau giám định, 03 bật lửa ga, 10 ống hút nhựa, 07 mảnh giấy bạc, 01 chai nhựa có gắn vòi hút nhựa, 01 hộp trắng bạc bằng kim loại, 01 hộp giấy màu đỏ; tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone màu trắng; trả lại bị cáo số tiền 3.140.000 đồng và 01 điện thoại di động màu vàng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ ra biết lỗi, hối hận và xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Hoàng L tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Mặc dù ban đầu bị cáo khai đã bán ma túy cho B, D và Đào Thanh L nhưng lời khai sau bị cáo trình bày mục đích bị cáo mua ma túy về vừa để sử dụng, vừa để bán lại kiếm lời nhưng chưa bán được ma túy cho ai, không thừa nhận đã bán ma túy cho B, D và Đào Thanh L mà là chỉ là cho B, D và Đào Thanh L ma túy để sử dụng. Ngoài lời khai của Đào Thanh L thừa nhận mua với bị cáo 05 viên ma túy với giá 500.000đồng, không có chứng cứ gì chứng minh việc bị cáo bán ma túy cho Đào Thanh L, B và D. Do đó, không có căn cứ xác định bị cáo đã bán ma túy cho những người này nhưng trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo vẫn thừa nhận mục đích tàng trữ ma túy là để vừa sử dụng vừa bán lại kiếm lời. Mục đích bán ma túy của bị cáo còn được thể hiện rõ qua việc bị cáo đã san ma túy đá từ 01 túi mua được ra thành nhiều túi nhỏ khác để bán lại. Do đó có đủ căn cứ xác định: Ngày 11/10/2019, tại nhà số 02, ngõ 101 đường B, phường H, thành phố L, bị cáo Phạm Hoàng L đã có hành vi tàng trữ 0,907 gam ma túy Methamphetamine với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời.

[2] Căn cứ vào Kết luận giám định số 347/KL-PC09 ngày 12/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Phạm Hoàng L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân và nhằm mục đích kiếm lời bất chính, bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bị cáo coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng đối với bị cáo mới đủ để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Để có căn cứ quyết định hình phạt, ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cần xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Ngày 15/7/2016, bị Công an thành phố H, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính 3.500.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại Bản án phúc thẩm số 1327 ngày 28/8/1996 của Tòa án nhân dân tối cao xử phạt bị cáo 10 năm tù giam về các tội Mua bán vũ khí trái phép, Cướp tài sản công dân, Cướp giật tài sản của công dân. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa chấp hành phần bồi thường dân sự và án phí nên chưa được xóa án tích, do đó lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, tại phiên tòa tỏ ra ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo kết quả xác minh tại Biên bản xác minh ngày 23/10/2019 của Công an phường H, thành phố L và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, thể hiện bị cáo không có việc làm, không có thu nhập, sống phụ thuộc vào gia đình và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành và 10 ống hút nhựa, 07 mảnh giấy bạc, 01 chai nhựa có gắn vòi hút nhựa, 01 hộp trắng bạc bằng kim loại, 01 hộp giấy là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động Iphone màu trắng bị cáo khai nhận đã sử dụng để liên lạc với Nam hỏi mua ma túy nên xác định đây là công cụ, phương tiện phạm tội nên cần tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước; đối với số tiền 3.140.000 đồng và 01 điện thoại di động màu vàng xác định không liên quan đến việc phạm tội, cần trả bị cáo.

[10] Về hành vi, quyết định tố tụng và về việc thu thập tài liệu, chứng cứ của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng và việc thu thập chứng cứ, tài liệu của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[11] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh và các nội dung khác cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận, riêng đề nghị về hình phạt có phần cao so với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; do đó, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng mức hình phạt thấp hơn mức đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

[12] Đối với lời khai ban đầu của bị cáo Phạm Hoàng L khai nhận ngày 10/10/2019, bị cáo bán cho anh Đào Thanh L 5 viên ma túy ngựa giá 500.000 đồng, tuy nhiên sau đó, bị cáo thay đổi lời khai, không thừa nhận việc được bán ma túy cho anh Đào Thanh L, quá trình điều tra không thu giữ được ma túy, do anh Đào Thanh L khai đã sử dụng hết nên không có căn cứ kết luận ngày 10/10/2019, bị cáo bán ma túy cho anh Đào Thanh L. Đối với hành vi sử dụng chất ma túy của Đào Thanh L, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý hành chính. Còn các đối tượng tên Nam, B, D, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh theo lời khai của bị cáo nhưng không xác định được lai lịch và địa chỉ cụ thể của các đối tượng này nên không có căn cứ xử lý trong vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[13] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đen xám BKS: 12S1-12xx, bị cáo khai của em trai là Phạm Hoàng V giao lại cho bị cáo quản lý sử dụng, bị cáo đã nhờ D cầm cố chiếc xe được 5.000.000 đồng để mua ma túy. Do bị cáo không biết lai lịch và nơi cư trú của D, Cơ quan điều tra tách hồ sơ liên quan đến chiếc xe BKS: 12S1-12xx tiếp tục xác minh, điều tra xử lý sau. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[14] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

[17] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Hoàng L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Hoàng L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 11/10/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng:

3.1. Tịch thu, tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong chứa chất ma túy sau giám định; 03 (ba) bật lửa ga, 10 (mười) ống hút nhựa, 07 (bẩy) mảnh giấy bạc, 01 (một) chai nhựa có gắn vòi hút nhựa, 01 (một) hộp trắng bạc bằng kim loại, 01 hộp giấy màu đỏ.

3.2. Tịch thu hóa giá sung Ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại Iphone màu trắng đã qua sử dụng.

3.3. Trả lại bị cáo Phạm Hoàng L số tiền 3.140.000 đồng (ba triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) và 01 điện thoại di động màu vàng đã qua sử dụng.

(Các vật chứng nêu trên được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố L, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh Lạng Sơn).

4. Về án phí: Bị cáo Phạm Hoàng L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 207/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:207/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về